[107] Công ước Viên 1969: Giải thích điều ước quốc tế

Ba quy định của Công ước Viên – Quy định chung theo Điều 31 – Các biện pháp bổ trợ theo Điều 32 – Giải thích điều ước đa ngôn ngữ theo Điều 33

Giải thích điều ước quốc tế là một phần quan trọng trong công việc hàng ngày của các luật sư, cố vấn pháp lý của bộ ngoại giao các nước.[1] Công ước Viên 1969 có ba quy định về giải thích điều ước quốc tế: Điều 31, 32 và 33. Điều 31 về quy định chung, Điều 32 về các biện pháp bổ trợ, và Điều 33 về giải thích điều ước được ký kết bằng nhiều ngôn ngữ. Điều 31 và 32 được công nhận rộng rãi là quy định tập quán quốc tế bởi các cơ quan tài phán trong rất nhiều vụ việc.[2] Điều 33 chưa có án lệ nào công nhận là quy định tập quán nhưng được sử dụng khá rộng rãi bởi các cơ quan tài phán quốc tế. Một điểm cần lưu ý rằng, bên cạnh các quy định ở Điều 31 – 33, các cơ quan tài phán quốc tế còn áp dụng các biện pháp, cách tiếp cận khác để giải thích điều ước quốc tế. Các cách tiếp cận khác sẽ được giới thiệu trong các bài viết tiếp theo.

  1. Quy định chung theo Điều 31

Điều 31(1) quy định điều ước quốc tế phải được giải thích một cách thiện chí theo nghĩa thông thường của câu chữ trong điều ước đặt trong bối cảnh, và phù hợp với mục đích và đối tượng của điều ước. Nghĩa thông thường của câu chữ trong điều ước là điểm bắt đầu của việc giải thích điều ước quốc tế, bởi lẽ câu chữ chính là bằng chứng rõ ràng nhất về ý định của các bên.[3] Thực tế đàm phán cũng cho thấy rằng các bên ký kết không chỉ tập trung vào nội dung cam kết mà còn rất cẩn trọng trong việc lựa chọn và sử dụng câu chữ nhằm phản ánh đúng nhất cam kết chung của các bên.

VCLT_art 31

  • Nghĩa thông thường của câu chữ có thể được hiểu là nghĩa phổ biến nhất theo cách sử dụng thông dụng; cách dễ dàng nhất là tìm nghĩa thông thường trong các từ điển ngôn ngữ có uy tín. Ví dụ, trong phán quyết về nội dung của Vụ kiện Biển Đông, Toà trọng tài đã sử dụng từ điển Oxford English Dictionary và Shorter Oxford English Dictionary để tìm nghĩa thông thường của các từ ngữ sử dụng trong Điều 121(3) Công ước Luật Biển năm 1982.[4]
  • Nghĩa thông thường của câu chữ không thể được hiểu một cách riêng rẻ mà cần được xem xét đặt trong bối cảnh của câu chữ đó. Khoản 2 Điều 31 giải thích bối cảnh bao gồm toàn bộ văn bản (cả lời nói đầu và các phụ lục), các thoả thuận, văn kiện liên quan đến điều ước. Những thoả thuận hay văn kiện nêu trên cần phải được sự đồng ý của tất cả các bên ký kết, do đó, phải được xem xét đến khi giải thích điều ước quốc tế mặc dù chúng không là một phần của điều ước.
  • Giải thích điều ước cần được thực hiện phù hợp với mục đích và đối tượng của điều ước. Nghĩa được giải thích ra phải không được đi ngược lại mà phải phục vụ cho việc đạt được mục đích và đối tượng của điều ước. Yếu tố này đôi khi được đồng nhất với nguyên tắc giải thích hữu hiệu (principle of effectiveness), theo đó, nếu quy định của điều ước dẫn đến hai ý nghĩa thì ý nghĩa nào cho phép điều ước có hiệu quả tốt hơn sẽ được lựa chọn.[5]
  • Ngoài nghĩa thông thường và bối cảnh, Điều 31 còn quy định ở Khoản 3 rằng giải thích điều ước cần xem xét đến (a) bất kỳ thoả thuận sau này giữa các bên liên quan đến giải thích điều ước, (b) bất kỳ thực tiễn sau này khi áp dụng điều ước được xem là thoả thuận của các bên về giải thích điều ước. Khoản 3 dự trù trước khả năng sau khi ký kết, các bên có thể có thoả thuận về giải thích điều ước bằng một thoả thuận rõ ràng hoặc ngầm định trong thực tiễn thực thi điều ước. Thoả thuận sau này được xem là cách giải thích xác thực chính thức của các bên.[6] Thực tiễn sau này thực thi điều ước được xem là “bằng chứng khách quan về cách hiểu của các bên về ý nghĩa của điều ước”[7], bởi vì nếu điều ước được thực thi một cách thuận lợi, không có tranh chấp thì chứng tỏ rằng ở một mức độ nhất định, các bên đã có cùng cách hiểu và chấp nhận cách hiểu đó.
  • Khoản 3 Điều 31 ở điểm (c) quy định thêm rằng bất kỳ quy định phù hợp nào của luật quốc tế áp dụng trong quan hệ giữa các bên cũng cần được xem xét đến. Đây là một quy định khá mơ hồ với nội hàm không phải rõ ràng khi được ILC dự thảo, và thực tế, nội hàm của quy định này chỉ phát triển dần theo thực tiễn.[8] Hai câu hỏi quan trọng là (1) luật áp dụng ở đây là luật tại thời điểm ký kết hay luật tại thời điểm áp dụng và (2) các quy định khác đóng vai trò đến mức độ nào khi giải thích điều ước.[9] Câu hỏi thức nhất liên quan đến một vấn đề rộng hơn liên quan đến vấn đề giải thích phát triển có vai trò đến đâu khi cả luật pháp quốc tế và ngôn ngữ sử dụng đều thay đổi theo thời gian. Câu hỏi thứ hai chỉ đến việc giải thích để phù hợp với tổng thể quan hệ pháp lý giữa các bên, bởi lẽ điều ước và quy định của điều ước đều là một bộ phận của luật quốc tế và giải thích không nên tách rời điều ước khỏi môi trường pháp lý của nó. Một số vai trò rõ ràng hơn của quy định ở điểm (c) này là bổ sung các quy định còn thiếu sót của điều ước bằng các quy định chung của luật quốc tế, đưa ra hướng dẫn giải thích từ các quy định tương tự trong các điều ước khác, và giải quyết xung đột giữa các điều ước.[10]
  • Khoản 4 Điều 31 quy định nếu các bên ký kết đồng ý về việc sử dụng một nghĩa đặc biệt thì nghĩa đặc biệt đó sẽ được sử dụng, không sử dụng nghĩa thông thường. Nghĩa đặc biệt này thường được ghi nhận trong các quy định đầu tiên của các điều ước quốc tế về định nghĩa các thuật ngữ được sử dụng.

Điều 31 yêu cầu giải thích điều ước quốc tế có thể cần chú ý đến hàng loạt các yếu tố nêu trên. Việc lựa chọn và áp dụng một hay một nhóm các yếu tố sẽ có thể cho ra các kết quả giải thích không giống nhau. Một kết quả giải thích là kết quả của việc áp dụng nhiều yếu tố sẽ có sức nặng hơn chỉ dựa vào một yếu tố. Với một bộ công cụ như thế, Điều 31 cho thấy giải thích điều ước quốc tế là một khoa học với các quy định, nhưng cũng là một nghệ thuật do kết quả giải thích dựa vào sự chủ quan trong đánh giá tác động của từng và các yếu tố giải thích.

  1. Các biện pháp bổ trợ theo Điều 32

Điều 32 quy định hai biện pháp bổ trợ khi giải thích điều ước quốc tế, bao gồm nhưng không giới hạn trong văn bản đàm phán (preparatory works/travaux preparatoire) và hoàn cảnh ký kết điều ước. Tính chất bổ trợ là do hai biện pháp này chỉ được áp dụng sau khi áp dụng Điều 31 nhằm mục đích xác nhận lại kết quả giải thích, hoặc trực tiếp giải thích điều ước khi kết quả giải thích theo Điều 31 rõ ràng là mơ hồ, phi lý. Các biện pháp bổ trợ ở Điều 32 là danh sách mở, có thể có các biện pháp bổ trợ khác.[11]

VCLT_Art 32

Xem xét văn bản đàm phán sẽ có thể giúp truy nguyên, theo dõi diễn biến đàm phán giữa các bên, từ ý tưởng ban đầu, mặc cả, nhượng bộ, trao đổi lợi ích để đi đến cam kết cuối cùng. Trong một số trường hợp, văn bản đàm phán hỗ trợ hiệu quả trong việc xác định rõ ý định của các bên, nhất là khi lưu trữ đầy đủ biên bản đàm phán. Bất lợi lớn nhất cho việc nghiên cứu văn bản đàm phán là không phải lúc nào cũng có đầy đủ biên bản ghi nhận trọn vẹn diễn biến đàm phán, đặc biệt là các cuộc đàm phán kéo dài nhiều năm, nhiều thập kỷ. Dù có đủ văn bản lưu trữ thì đôi khi văn bản lưu trữ quá lớn để khảo sát toàn diện, ví dụ như văn bản đàm phán trong Hội nghị Liên hợp quốc về Luật Biển lần thứ ba (1973 – 1982).

Hoàn cảnh ký kết điều ước là yếu tố rất mơ hồ và có thể xem là biện pháp bất đắc dĩ cuối cùng khi giải thích điều ước quốc tế. Lo-gic ở đây là dựa vào tất cả các hoàn cảnh xung quanh việc ký kết điều ước quốc tế đặt trong quan hệ giữa các bên để xác định ý định của các bên. Biện pháp này cần phải sử dụng một cách cẩn trọng. Độ khả tín của yếu tố này rất thấp.

  1. Giải thích điều ước được ký kết bằng nhiều ngôn ngữ

Thực tế khá phổ biến trường hợp một điều ước quốc tế được ký kết bằng nhiều ngôn ngữ, ví dụ như các điều ước quốc tế do Liên hợp quốc bảo trợ sẽ có sáu bản bằng sáu ngôn ngữ chính thức của tổ chức này, hay điều ước quốc tế song phương sẽ thường có hai bản theo hai ngôn ngữ của hai bên ký kết. Điều 33 quy định về giải thích điều ước quốc tế có nhiều bản ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là khi giữa các phiên bản có độ lệch về ý nghĩa.

VCLT_art 33

Ở đây cần đặc biệt lưu ý rằng Điều 33 chỉ áp dụng đối với các bản được xác thực, bản gốc của điều ước quốc tế, chứ không điều chỉnh với những bản không có giá trị xác thực như “bản dịch chính thức”, “bản dịch” của điều ước do một quốc gia hay một tổ chức đưa ra. Bản xác thực của điều ước là văn bản được các bên ký kết xác thực theo quy định ở Điều 10 Công ước Viên, hoặc theo quy định của chính điều ước quốc tế đó.

Thực tế cho thấy hầu hết các điều ước với nhiều bản xác thực bằng các ngôn ngữ khác nhau sẽ quy định chúng có giá trị bằng nhau. Các quốc gia cũng có thể thoả thuận để lựa chọn một bản có giá trị ưu thế hơn so với các bản xác thực khác.[12] Khi đó, bản ưu thế sẽ là văn bản duy nhất được sử dụng để giải thích và áp dụng điều ước quốc tế. Trong trường hợp có xung đột ý nghĩa giữa các bản thì bản ưu thế sẽ được sử dụng. Ví dụ như Điều 23(5) Hiệp định tự dọ, xúc tiến và bảo hộ đầu tư năm 2003 giữa Việt Nam và Nhật Bản quy định Hiệp định này được lập thành ba bản tiếng Việt, tiếng Nhật và tiếng Anh, tất cả các bản đều có giá trị bằng nhau, nhưng trong trường có tranh chấp thì bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết định.

Khoản 3 Điều 33 quy định câu chữ của điều ước được xem là có cùng ý nghĩa trong mỗi và tất cả bản xác thực. Lo-gic ở đây là: dù có nhiều bản ngôn ngữ khác nhau nhưng về bản chất chỉ có một điều ước quốc tế được ký kết, và do đó, cũng chỉ có một nghĩa duy nhất trong tất cả bản ngôn ngữ khác nhau đó. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận và điều ước không có quy định, thì Khoản 4 Điều 33 quy định rằng ý nghĩa của điều ước sẽ là ý nghĩa có thể hoà giải tốt nhất sự khác nhau giữa các phiên bản ngôn ngữ, có xét đến mục đích và đối tượng của điều ước. Như vậy, nếu không có phiên bản ưu thế thì tất cả các phiên bản xác thực đều có giá trị bằng nhau, và nghĩa chung, duy nhất của chúng là ý nghĩa trung hoà được tất cả các phiên bản.

Quy định ở Điều 33 là rất cần thiết khi thực tiễn cho thấy khó có điều ước quốc tế nào mà không có nhiều phiên bản xác thực, trừ trường hợp ngôn ngữ chính thức của các bên là giống nhau (như Mỹ và Anh chẳng hạn). Ngoài ý nghĩa về xác lập quy định giải quyết vấn đề điều ước quốc tế có nhiều phiên bản ngôn ngữ xác thực, Điều 33 còn có một số gợi ý hữu ích cho người nghiên cứu và thực hành luật quốc tế. Thứ nhất, Điều 33 gợi ý rằng thông qua biện pháp so sánh các bản xác thực trong nhiều ngôn ngữ có thể làm sáng tỏ hơn ý nghĩa của điều ước. Ví dụ như Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc quy định quyền tự vệ là “the inherent right of individual or collective defense” trong bản tiếng Anh, và sẽ dễ hiểu hơn nữa đọc thêm bản tiếng Pháp từ được sử dụng là “au droit naturel de légitime défense, individuelle ou collective”; bản tiếng pháp dùng từ “naturel” và thêm một từ “légitime” với nghĩa quyền tự vệ hợp pháp là một quyền tự nhiên. So sánh như thế có thể thấy rõ hơn nội hàm của một quy định cụ thể. Thứ hai, khi đọc và giải thích các điều ước quốc tế phải xem xét trên cơ sở bản xác thực của điều ước đó, không sử dụng bản dịch để bảo đảm các phân tích, cách hiểu đúng nhất và sát nhất. Khi làm việc với các điều ước quốc tế đa phương, như Công ước Luật Biển năm 1982, nếu người Việt sử dụng bản dịch tiếng Việt, kể cả khi bản dịch đó là bản dịch tiếng Việt chính thức của Bộ Ngoại giao, thì về nguyên tắc là không đúng phương pháp do văn bản dịch đó không có giá trị pháp lý theo luật pháp quốc tế.

Trần H.D. Minh

Lược trích từ: Trần Hữu Duy Minh, ‘Giải thích điều ước quốc tế theo quy định của Công ước Viên năm 1969 và pháp luật Việt Nam’, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10 (366), tháng 10/2018, tr. 77-.

Xem thêm các bài về luật điều ước quốc tế:

  1. Giới thiệu chung về Công ước Viên năm 1969
  2. Định nghĩa “điều ước quốc tế”
  3. Quyền năng và thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế
  4. Các bước ký kết điều ước quốc tế
  5. Bảo lưu điều ước quốc tế (xem thêm về Thực tiễn bảo lưu điều ước của Việt Nam)
  6. Hiệu lực của điều ước quốc tế
  7. Áp dụng các điều ước điều chỉnh về cùng một vấn đề (xung đột điều ước)
  8. Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước ở Việt Nam
  9. Thực tiễn áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế tại Việt Nam
  10. Sửa đổi, bổ sung điều ước
  11. Vô hiệu điều ước quốc tế
  12. Hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước quốc tế
  13. Giải thích điều ước quốc tế: Các cách tiếp cận ngoài Công ước Viên năm 1969, và Thẩm quyền giải thích điều ước quốc tế.

———————————————————————-

[1] Anthony Aust, Modern Treaty Law and Practice, 2nd ed., (Cambridge University Press 2007) 230.

[2] ILC, “Subsequent agreements and subsequent practice in relation to the interpretation of treaties”, in trong ILC, Report of the International Law Commission on the work of the sixty-eighth session, 2016, tr. 126 – 127.

[3] ILC, Draft articles on the law of treaties with commentaries 1966, in trong ILC, Yearbook of the International Law Commission 1966, vol. II (United Nations 1967) 220.

[4] Vụ kiện Biển Đông (Philippines v. Trung Quốc) [2016] (Phán quyết về nội dung) Toà trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS [478] – [506].

[5] ILC (n 3) 219.

[6] Như trên, 221.

[7] Như trên.

[8] Richard Gardiner, ‘The Vienna Convention Rules on Treaty Interpretation’, in trong Duncan B. Hollis (ed.), The Oxford Gude to Treaties (Oxford University Press 2012) 487.

[9] Như trên, tr. 485 – 487.

[10] Richard K. Gardiner, Treaty Interpretation (Oxford University Press 2008) 260.

[11] Như trên, mục 3.3, tr. 311 – 312; Anthony Aust (n 1) 248 – 249.

[12] Điều 33(1) Công ước Viên.

14 bình luận về “[107] Công ước Viên 1969: Giải thích điều ước quốc tế

Add yours

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Tạo một blog trên WordPress.com

Up ↑

%d người thích bài này: