Liệu Gambia có phải là bên nộp đơn thực sự (the real applicant)? – Liệu có tồn tại tranh chấp giữa hai quốc gia? – Myanmar bảo lưu Điều VIII – Liệu Gambia có tư cách khởi kiện (standing)?
Vào ngày 11/11/2019, Gambia đã nộp đơn khởi kiện Myanmar lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) về các hành vi vi phạm Công ước về ngăn chặn và trừng phạt tội ác diệt chủng (“Công ước chống Diệt chủng”). Vào ngày 20/01/2021, Myanmar đã đưa ra 04 phản đối sơ bộ về thẩm quyền và điều kiện thụ lý.
Ngày 22.07.2022, Tòa ra Phán quyết đầu tiên trong Vụ Áp dụng Công ước về Ngăn ngừa và Trừng trị Tội ác Diệt chủng (Gambia v. Myanmar). Trong phán quyết này, Tòa đưa ra 05 kết luận chính đối với thẩm quyền của Tòa đối với vụ việc và 04 phản đối sơ bộ từ Myanmar. 04 phản đối này liên quan đến “bên nộp đơn thực sự” trong vụ việc (phản đối sơ bộ đầu tiên), tư cách nộp đơn lên Tòa của Gambia (phản đối sơ bộ thứ hai), việc bảo lưu của Myanmar đối với Điều VIII của Công ước chống Diệt chủng (phản đối sơ bộ thứ ba) và cuối cùng là sự tồn tại của tranh chấp (phản đối sơ bộ thứ tư).
Đối với phản đối sơ bộ thứ nhất, thứ tư và thứ 3; Tòa đã đồng thuận bác bỏ 03 phản đối này từ phía Myanmar. Đối với phản đối sơ bộ thứ hai cũng như thẩm quyền của Tòa, Tòa đã nhận sự phản đối từ Thẩm phán Xue.
Xem Tóm tắt Phán quyết ngày 22.07.2022 (Eng), Toàn văn Phán quyết ngày 22.07.2022 (Eng). Xem thêm phản đối từ Thẩm phán Xue (Eng).
1. Quan điểm của Tòa đối với phản đối sơ bộ thứ nhất: Liệu Gambia có phải là bên nộp đơn thực sự cho vụ việc?
Myanmar cho rằng Tòa không có thẩm quyền xét xử trong vụ việc này hoặc đơn khởi kiện của Gambia không thể được thụ lý vì “bên nguyên đơn thật sự” (the real applicant) cho vụ việc là Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (“OIC”) – một tổ chức quốc tế. Theo Điều 34(1) Quy chế của Tòa, một tổ chức quốc tế không có quyền là một bên trong vụ kiện.
1.1. Phản đối sơ bộ của Myanmar về thẩm quyền nộp đơn
Myanmar cho rằng cả OIC và Gambia đều nhiều lần công nhận rằng Gambia đã được OIC “chỉ định” hoặc “giao nhiệm vụ” để đưa các thủ tục tố tụng ra trước Tòa thay mặt cho OIC. Do đó, nước này đặt ra câu hỏi về việc liệu một chủ thể có thể phá vỡ giới hạn về thẩm quyền của Tòa bằng cách chỉ định hoặc giao nhiệm vụ cho một Quốc gia để thay mặt mình đưa vụ kiện lên Tòa hay không.
Ngoài ra, Myanmar cũng đề cập những yếu tố để khẳng định quan điểm của nước này rằng “bên nộp đơn thực sự” trong vụ việc này là OIC. Cụ thể, Myanmar chỉ ra trong một thông cáo báo chí của Gambia đưa ra vào ngày 11/11/2019, trong đó tuyên bố rằng vụ kiện do Gambia “hành động thay mặt cho 57 quốc gia thành viên” của OIC và “OIC đã chỉ định Gambia – một thành viên của OIC, thay mặt họ khởi kiện”. Cũng theo thông cáo này, Gambia đã cung cấp cho OIC thông tin về tiến trình vụ việc và các chi phí pháp lý trong thủ tục tố tụng này đã được OIC tài trợ hoàn toàn. [1]
Quan điểm của Tòa
Liên quan đến phản đối sơ bộ thứ nhất, Tòa cho rằng để xác định liệu Gambia có phải “bên nộp đơn thật sự” trong vụ việc này hay không cần dựa vào các điều khoản liên quan. Gambia là một Quốc gia (đáp ứng Điều 34(1), Quy chế Tòa án), là một thành viên của Liên hợp quốc, và do đó, được coi là thành viên của Tòa (đáp ứng Điều 35(1), Quy chế Tòa án). Cả hai nước, Myanmar và Gambia, đều là thành viên của Công ước chống Diệt chủng và đã xảy ra tranh chấp giữa hai Quốc gia này; từ đó, vụ việc được đưa lên tòa theo Điều IX của Công ước. Do đó, Tòa tuyên bố rằng Gambia đã đáp ứng đủ các điều kiện để trở thành “bên nộp đơn thật sự” trong vụ việc.
Tòa cũng lưu ý rằng Gambia đã tiến hành các thủ tục tố tụng với tên của chính nước này và với tư cách là một Quốc gia thành viên của Tòa và Công ước. Tòa cũng nhấn mạnh việc Gambia khẳng định có tranh chấp với Myanmar về các quyền của chính nước này với tư cách là một thành viên của Công ước. Tòa cũng cho rằng việc một quốc gia nhận được sự hỗ trợ về mặt tài chính hoặc chính trị từ một tổ chức khác không làm mất đi tư cách của quốc gia này trong việc nộp đơn tố tụng tại Tòa. [2] Do đó, Tòa bác bỏ phản đối sơ bộ đầu tiên của Myanmar liên quan tới vấn đề thẩm quyền.
1.2. Phản đối sơ bộ của Myanmar về điều kiện thụ lý
Tiếp đó, Myanmar khẳng định rằng kể cả khi Tòa có thẩm quyền, đơn do Gambia nộp lên Tòa cũng không thể được thụ lý (inadmisible). Theo quan điểm của nước này, vụ việc được Gambia nộp lên Tòa với mục đích thay mặt cho một chủ thể không thể nộp đơn, trong trường hợp này là OIC. Điều này có thể được xem là hành vi lạm dụng quy trình (“abuse of process”) đối với quốc gia nộp đơn trên danh nghĩa nhằm cách tạo điều kiện cho việc lách các giới hạn về quyền tài phán của Tòa.
Quan điểm của Tòa
Như đã trình bày ở trên, Tòa cho rằng bên nộp đơn trong vụ việc này là Gambia đã đáp ứng đủ các yêu cầu đề ra liên quan đến việc xác định “bên nộp đơn thật sự” trong tranh tụng. Theo Tòa, chỉ trong những trường hợp ngoại lệ, Tòa mới nên từ chối yêu cầu tố tụng với lý do lạm dụng quy trình. [3] Tòa nhận thấy rằng không có bằng chứng nào chứng minh hành vi của Gambia là lạm dụng quy trình. Do đó, phản đối sơ bộ đầu tiên của Myanmar liên quan đến khả năng chấp nhận đơn đăng ký của Gambia bị từ chối.
2. Quan điểm của Tòa đối với phản đối sơ bộ thứ tư: Việc tồn tại tranh chấp giữa hai bên
Phản đối của Myanmar
Myanmar đưa ra hai định nghĩa “tranh chấp” theo Điều IX, Công ước chống Diệt chủng, bao gồm: (1) Tuyên bố rõ ràng từ quốc gia nộp đơn để Quốc gia bị đơn có thể nhận thức về cáo buộc vi phạm luật quốc tế; và (2) nhận thức của các bên về sự tồn tại của tranh chấp ở thời điểm nộp đơn. Vụ việc này có 04 tuyên bố liên quan được đưa ra bởi đại diện của các bên trước Đại hội đồng Liên hợp quốc vào tháng 09/ 2018 [4] và tháng 09/ 2019. [5] Ngoài ra, một tài liệu nữa cũng liên quan đến việc xác định tranh chấp là Công hàm mà Gambia đã gửi cho Phái bộ thường trực của Myanmar tại Liên hợp quốc vào ngày 11/10/2019. [6] Myanmar đã đưa ra hai lập luận để chứng minh cho luận điểm của mình. Đầu tiên, Myanmar cho rằng các tuyên bố và Công hàm mà Gambia đưa ra thiếu tính cụ thể, theo nghĩa là Gambia đã không trình bày cụ thể các yêu sách pháp lý của mình. Thứ hai, Myanmar khẳng định rằng yêu cầu về “nhận thức chung” không được thỏa mãn vì nước này chưa bao giờ bác bỏ các yêu sách của Gambia.
Quan điểm của Tòa
Tòa cho rằng để xác định sự tồn tại của tranh chấp cần nhìn vào những tài liệu hoặc tuyên bố được trao đổi giữa các bên với nhau. Sau khi xem xét 04 tuyên bố kể trên của các bên trước Đại hội đồng và Công hàm gửi bởi Gambia, Tòa đưa ra các tuyên bố liên quan đến lập luận của Myanmar như sau.
Với lập luận của Myanmar về việc sự tồn tại của một tranh chấp cần có “nhận thức chung” của hai bên về những quan điểm trái ngược, Tòa cho rằng trong trường hợp bị đơn không trả lời yêu cầu của bên nộp đơn, trong một số trường hợp, có thể xem sự im lặng này là hành động phản đối những tuyên bố đó. [7] Từ đó, tranh chấp có tồn tại tại thời điểm nộp đơn. Do đó, Tòa phản bác lập luận về yêu cầu “nhận thức chung” của Myanmar.
Với lập luận thứ hai của Myanmar về việc các tuyên bố nói trên thiếu tính cụ thể, Tòa cho rằng không cần phải có một tham chiếu cụ thể đến một điều ước quốc tế, trong trường hợp này là Công ước chống Diệt chủng. [8] Các tuyên bố của Gambia vào tháng 09/2018 và tháng 09/2019 [9] được công bố ngay sau khi có báo cáo của Phái đoàn Tìm hiểu Sự thật. [10] Gambia đã đề cập đến những phát hiện của báo cáo này liên quan đến dân số Rohingya ở Myanmar. Tòa tin rằng Myanmar không thể không ý thức được tranh chấp này vì Gambia đã bày tỏ rõ quan điểm ủng hộ một cơ chế chịu trách nhiệm giải trình đối với các cáo buộc tội ác chống lại người Rohingya. [11] Bên cạnh đó, Tòa cũng chỉ ra trong Công hàm gửi bởi Gambia đã thể hiện rõ quan điểm đối lập của hai bên. Gambia đã nhấn mạnh “dứt khoát phản đối việc Myanmar phủ nhận trách nhiệm của mình đối với nạn diệt chủng đang diễn ra đối với người Rohingya ở Myanmar và việc nước này từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình theo Công ước chống Diệt chủng”. [12]
Do đó, Tòa kết luận rằng có tranh chấp liên quan đến vấn đề hiểu, áp dụng và thực thi Công ước chống Diệt chủng giữa hai bên tại thời điểm Gambia nộp đơn. Từ đó, Tòa bác bỏ phản đối sơ bộ thứ tư của Myanmar.
3. Quan điểm của Tòa về phản đối sơ bộ thứ ba: Myanmar bảo lưu Điều VIII Công ước chống Diệt chủng
Phản đối của Myanmar
Với phản đối sơ bộ thứ ba, Myanmar cho rằng Tòa không có thẩm quyền hoặc đơn của Gambia không thể được thụ lý do Myanmar đã bảo lưu Điều VIII Công ước Diệt chủng. [13] Điều VIII quy định: “Bất kỳ Bên ký kết nào cũng có thể kêu gọi các cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc thực hiện hành động như vậy theo Hiến chương Liên hợp quốc khi họ cho là phù hợp để ngăn chặn và trấn áp các hành vi diệt chủng hoặc bất kỳ hành vi nào khác được liệt kê trong điều III.”
Theo quan điểm của Myanmar, “các cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc” không chỉ bao gồm các cơ quan chính trị mà bao gồm cả Tòa ICJ. Nước này cho rằng vì Điều VIII của Công ước liên quan đến thẩm quyền của Tòa; do đó việc họ bảo lưu điều khoản này vào năm 1949 [14] đã ngăn cản thẩm quyền của Tòa. Myanmar khẳng định rằng hành động bảo lưu với Điều VIII phải được hiểu là ngăn cản “các Quốc gia không bị thiệt hại” khởi kiện ra Tòa trong một vụ kiện liên quan đến Công ước chống Diệt chủng.
Quan điểm của Tòa
Với phản đối sơ bộ thứ ba của Myanmar, Tòa nhận thấy “các cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc” có bao gồm cả Tòa. [15] Tuy nhiên, Điều VIII quy định rằng các cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc có thể “thực hiện hành động như vậy … khi họ cho là phù hợp”. Điều này cho thấy rằng các cơ quan này có quyền quyết định hành động nên được thực hiện nhằm “ngăn chặn và trấn áp các hành vi diệt chủng hoặc bất kỳ hành vi nào khác được liệt kê trong Điều III”. [16] Hơn nữa, Tòa cũng đặc biệt lưu ý rằng Điều VIII và Điều IX của Công ước Diệt chủng có các lĩnh vực áp dụng riêng biệt. Điều IX quy định các điều kiện để sử dụng cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc trong bối cảnh tranh chấp giữa các Bên ký kết, trong khi Điều VIII cho phép bất kỳ Bên ký kết nào khiếu nại lên các cơ quan có thẩm quyền khác của Liên hợp quốc, ngay cả khi không có tranh chấp với Bên ký kết khác. [17] Từ đó, Điều VIII không liên quan đến thẩm quyền của Tòa, nên Tòa không cần thiết phải xem xét nội dung bảo lưu của Myanmar đối với Điều VIII. Do đó, Tòa án kết luận rằng phản đối sơ bộ thứ ba của Myanmar phải bị bác bỏ.
4. Quan điểm của Tòa đối với phản đối sơ bộ thứ hai: Gambia không có tư cách để đưa vụ việc ra Tòa
Phản đối của Myanmar
Trong phản đối sơ bộ thứ hai, Myanmar đưa ra 03 luận điểm để khẳng định Gambia không có tư cách (standing) để đưa vụ việc này ra Tòa. Đầu tiên, Myanmar cho rằng chỉ có những “quốc gia bị thiệt hại” (injured states) mới có tư cách để đưa vụ việc lên Tòa. Theo định nghĩa của quốc gia này, “quốc gia bị thiệt hại” là những quốc gia bị ảnh hưởng một cách nặng nề bởi hành vi sai phạm quốc tế. Theo quan điểm của Myanmar, Gambia không phải là “quốc gia bị thiệt hại” cũng như không có lợi ích từ vụ việc. Do đó, Myanmar cho rằng Gambia không có tư cách để đưa vụ việc lên Tòa theo Điều IX, Công ước chống Diệt chủng.
Thứ hai, Myanmar viện dẫn Điều 44(a) trong các Điều khoản của Ủy ban Luật Quốc tế về Trách nhiệm của các Quốc gia với các Hành vi Sai phạm Quốc tế. [18] Cụ thể, điều khoản này quy định: “Trách nhiệm của một quốc gia có thể không được viện dẫn nếu: (a) khiếu nại không được đưa ra theo bất kỳ quy định hiện hành nào liên quan đến quốc tịch của yêu sách;”
Theo Myanmar, về quy định liên quan đến quốc tịch, quy định này áp dụng cho việc viện dẫn trách nhiệm của cả các quốc gia “bị thiệt hại” và “không bị thiệt hại”. Quy định liên quan đến quốc tịch là một quy định của luật quốc tế nhằm quyết định quốc gia được đưa ra yêu sách hoặc có quyền viện dẫn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra vi phạm quốc tế. Do đó, theo quan điểm của nước này, vì nhóm Rohingya không phải là công dân của Gambia, Gambia không có tư cách để viện dẫn trách nhiệm của Myanmar vì lợi ích của thành viên nhóm này. [19]
Quan điểm của Tòa
Để trả lời cho câu hỏi về tư cách đệ trình tranh chấp lên Tòa của Gambia, Tòa viện dẫn Ý kiến tư vấn về các bảo lưu đối với Công ước chống Diệt chủng. [20] Cụ thể, Ý kiến tư vấn cho rằng tất cả các quốc gia thành viên của Công ước chống Diệt chủng đều có mục đích chung là đảm bảo ngăn chặn, trấn áp và trừng phạt tội diệt chủng bằng cách cam kết thực hiện các nghĩa vụ trong Công ước. Điều này ngụ ý rằng bất kỳ Quốc gia thành viên nào cũng có nghĩa vụ đối với các Quốc gia thành viên khác; và đều có quyền viện dẫn trách nhiệm của một Quốc gia thành viên về hành vi bị cáo buộc vi phạm nghĩa vụ của mình. Từ đó, Tòa khẳng định một Quốc gia không cần chứng minh rằng bất kỳ nạn nhân nào của hành vi bị cáo buộc vi phạm Công ước chống Diệt chủng là công dân nước mình. [21]
Theo ý kiến của Tòa, Công ước không gắn thêm các điều kiện đối với việc viện dẫn trách nhiệm hoặc khả năng chấp nhận các yêu sách được đệ trình lên Tòa. Việc sử dụng cụm từ “các Bên ký kết” trong Điều IX được giải thích là do thẩm quyền của Tòa án theo Điều IX đòi hỏi phải có tranh chấp giữa hai hoặc nhiều Bên ký kết. Ngược lại, “bất kỳ Bên ký kết nào” có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc theo Điều VIII, ngay cả khi không có tranh chấp với Bên ký kết khác. [22]
Vì những lý do trên, Tòa án kết luận rằng Gambia, với tư cách là một Quốc gia thành viên của Công ước chống Diệt chủng, có tư cách viện dẫn trách nhiệm của Myanmar đối với những vi phạm bị cáo buộc đối với các nghĩa vụ của mình theo Điều I, III, IV và V của Công ước. Do đó, phản đối sơ bộ thứ hai của Myanmar phải bị bác bỏ.
Lương Vũ Khánh Ly
[1] Gambia v. Myanmar, Đoạn 37.
[2] Gambia v. Myanmar, Đoạn 44.
[3] Islamic Republic of Iran v. United States of America, Preliminary Objections, Judgment, I.C.J. Reports 2019 (I), Đoạn 113.
[4] Bài phát biểu của Tổng thống Gambia trước Đại Hội đồng Liên hợp quốc, 25/09/2018, xem thêm tại <https://news.un.org/en/story/2018/09/1020632>
[5] Bài phát biểu của Phó Tổng thống Gambia trước Đại Hội đồng Liên hợp quốc, 26/09/2019, xem thêm tại <https://media.un.org/en/asset/k1m/k1mmriserp>
[6] Gambia v. Myanmar, Đoạn 40.
[7] Gambia v. Myanmar, Đoạn 71.
[8] [11] Gambia v. Myanmar, Đoạn 72.
[9] Bài phát biểu của Phó Tổng thống Gambia trước Đại Hội đồng Liên hợp quốc, 26/09/2019, xem thêm tại <https://media.un.org/en/asset/k1m/k1mmriserp>
[10] United Nations Independent International Fact-Finding Mission on Myanmar
[12] Gambia v. Myanmar, Đoạn 74.
[13] Công ước về Ngăn ngừa và Trừng phạt tội Diệt chủng, xem thêm tại <https://nhanquyen.vietnam.vn/post/cong-uoc-ve-ngan-ngua-va-trung-tri-toi-diet-chung>
[14] United Nations Treaty Collection, xem thêm tại <https://treaties.un.org/pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=VIII-1&chapter=8&clang=_en>
[15][16] Gambia v. Myanmar, Đoạn 88.
[17] Gambia v. Myanmar, Đoạn 89.
[18] Điều khoản của Ủy ban Luật Quốc tế về Trách nhiệm của các Quốc gia với các Hành vi Sai phạm Quốc tế, xem thêm tại <https://casebook.icrc.org/case-study/international-law-commission-articles-state-responsibility>
[19] Gambia v. Myanmar, Đoạn 98.
[20] Reservations to the Convention on the Prevention and
Punishment of the Crime of Genocide, Advisory Opinion, I.C.J. Reports 1951, xem thêm tại <https://www.icj-cij.org/sites/default/files/case-related/12/012-19510528-ADV-01-00-EN.pdf>
[21] Gambia v. Myanmar, Đoạn 109.
[22] Gambia v. Myanmar, Đoạn 110.
Bình luận về bài viết này