Thẩm quyền của Toà – Kết luận của Toà về vi phạm của Mỹ – Biện pháp khắc phục thiệt hại – Sự phát triển của học thuyết bàn tay sạch (“clean hand doctrine”).
Năm 1996, Mỹ thông qua luật xóa bỏ quyền miễn trừ tài phán của Iran trước tòa án Mỹ, mở đường cho một loạt các vụ kiện yêu cầu Iran bồi thường cho các nạn nhân của vụ đánh bom năm 1983 và các hành vi khác mà tòa án Mỹ quy trách nhiệm cho Iran. Tổng cộng tòa án Mỹ đã tuyên Iran phải bồi thường 56 tỷ USD.[1] Năm 2002, 2008 và 2012 Mỹ thông qua các biện pháp tạo điều kiện thực thi các phán quyết, cho phép sử dụng tài sản bị phong tỏa của Iran để thực thi các phán quyết. Đặc biệt, năm 2012, Tổng thống Obama thông qua Quyết định hành chính 13599 phong tỏa tất cả tài sản của Chính phủ Iran, bao gồm của Ngân hàng Trung ương Iran và các thiết chế tài chính do Iran sở hữu hoặc kiểm soát, trên lãnh thổ của Mỹ hoặc đang được giữ hay kiểm soát bởi các cá nhân người Mỹ, bao gồm cả các chi nhánh nước ngoài. Hệ quả là một phần tài sản của Iran đã bị xử lý để bồi thường theo các phán quyết của tòa án Mỹ.[2]
Năm 2016, Iran đã khởi kiện Mỹ ra Tòa ICJ theo Hiệp ước Thân thiện, Quan hệ kinh tế và Quyền lãnh sự năm 1957. Sau phán quyết về thẩm quyền ngày 13.02.2019, Toà ICJ tiếp tục xét xử về sự vi phạm của Mỹ với các quy định của Hiệp ước này trong việc đối xử với các tài sản và pháp nhân Iran. Ngày 30.03.2023, Tòa ICJ đã đưa ra phán quyết về nội dung của vụ việc này với kết luận Mỹ vi phạm một số nghĩa vụ theo Hiệp ước.
Trong phán quyết mới, trước tiên, Toà làm sáng tỏ thẩm quyền đối với tài sản của Ngân hàng Trung ương Iran (gọi tắt là Ngân hàng Markazi) theo các Điều III, IV và V của Hiệp ước Thân thiện, Quan hệ kinh tế và Quyền lãnh sự năm 1957 (Hiệp ước 1957). Tòa tuyên bố không có thẩm quyền với tài sản của ngân hàng này.[3] Tuy nhiên, Tòa cũng kết luận rằng Mỹ đã vi phạm nghĩa vụ của mình khi phong tỏa trái phép các tài sản khác, và do đó, yêu cầu Mỹ bồi thường cho thiệt hại của các công ty Iran. Cuối cùng, một điểm thú vị và đáng lưu ý trong phán quyết là sự phát triển pháp lý của học thuyết bàn tay sạch (“clean hand doctrine”).
1. Thẩm quyền của Toà
Trong phán quyết ngày 13.02.2019, dựa theo Hiệp ước 1957, Tòa đã xác định có thẩm quyền với các cáo buộc vi phạm liên quan đến hành động của Mỹ đối với tài sản và pháp nhân Iran. Tuy nhiên, trong phán quyết đó, Tòa chưa xác định việc liệu Tòa có thẩm quyền đối với các cáo buộc của Iran liên quan đến khối tài sản trị giá 1.75 tỷ đô của Markazi hay không và quyết định sẽ đưa ra phán quyết sau khi xác định được đầy đủ thông tin của vụ kiện. Đây là một vấn đề quan trọng khi phần lớn các cáo buộc của Iran xoay quanh việc này. Trong phán quyết mới, Tòa kết luận “Markazi không phải là một công ty được đề cập trong Hiệp ước” và do vậy, Tòa không có thẩm quyền đối với các cáo buộc của Iran liên quan đến tài sản của Markazi.[4]
Cụ thể, Tòa cho rằng để xác định Markazi có là một “công ty” phù hợp với khái niệm trong Hiệp ước hay không phụ thuộc vào bản chất hoạt động của ngân hàng này.[5] Ở đây, câu hỏi cần làm rõ là về mặt bản chất, liệu các hoạt động của Markazi tại Mỹ có chỉ thuần tuý là hoạt động thực thi chủ quyền hay còn có các yếu tố thương mại.[6]
Tòa lưu ý rằng hoạt động duy nhất mà Iran dựa vào để chứng minh Markazi như một “công ty” là việc mua 22 quyền sở hữu chứng khoán được phát hành trên thị trường tài chính của Mỹ và quản lý lợi nhuận thu được từ những quyền sở hữu đó trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2007. Theo Tòa, những hoạt động này không đủ để chứng minh rằng ngân hàng Markazi đã tham gia vào các hoạt động có tính chất thương mại và đây chỉ là một cách để thực hiện chức năng chủ quyền của Markazi như một ngân hàng trung ương.[7] Do vậy, Tòa kết luận rằng Markazi không thể được coi là một “công ty” theo nghĩa của Hiệp ước 1957.
2. Kết luận của Tòa về các vi phạm của Mỹ
Trong số các cáo buộc mà Iran đưa ra chống lại Mỹ, Toà kết luận Mỹ vi phạm bốn điều khoản của Hiệp định 1957.
2.1. Mỹ vi phạm Khoản 1, Điều IV và Khoản 1, Điều III
Mỹ đã thực hiện các biện pháp nhằm “bồi thường cho các nạn nhân của vụ đánh bom năm 1983 và các hành vi khác mà tòa án Mỹ quy trách nhiệm cho Iran” bằng cách phong toả tài sản của các công ty Iran, và sau đó sử dụng những tài sản này để bồi thường thiệt hại. Iran cáo buộc rằng việc này đã làm mất tính chất pháp nhân độc lập của các công ty này. Do vậy, Mỹ bị cáo buộc vi phạm nghĩa vụ về tôn trọng tư cách pháp nhân riêng biệt tại Điều III, Đoạn 1. Đồng thời qua việc này, Iran cáo buộc thêm rằng Mỹ đã không thực hiện nghĩa vụ “đối xử công bằng đối với công dân và công ty của và với tài sản và doanh nghiệp của Iran” tại Đoạn 1, Điều IV.
Mỹ cho rằng không có sự phân biệt đối xử, vì các biện pháp này áp dụng cho tất cả các Quốc gia được xác định là nhà tài trợ khủng bố và không giới hạn chỉ riêng đối với Iran.
Khoản 1, Điều IV quy định: “Mỗi bên luôn phải trao đổi, đối xử công bằng đối với công dân và công ty của bên còn lại, và với tài sản và doanh nghiệp của họ; phải không áp dụng biện pháp bất hợp lý hoặc phân biệt đối xử gây thiệt hại đến quyền và lợi ích được hợp pháp của họ; và phải đảm bảo rằng quyền hợp đồng hợp pháp của họ được cung cấp các biện pháp thực thi hiệu quả, phù hợp với các luật pháp áp dụng.”
Tòa kết luận Mỹ đã vi phạm Khoản 1, Điều IV liên quan đến việc không áp dụng các biện pháp bất hợp lý.[8] Để đưa ra kết luận này, trước hết, Tòa giải thích một biện pháp “bất hợp lý” là một biện pháp: (i) không theo đuổi một mục đích cho cộng đồng hợp pháp, hoặc (ii) không có mối liên hệ thích hợp giữa mục đích được theo đuổi và biện pháp được áp dụng, hoặc (iii) tác động tiêu cực vượt quá mức đối với mục đích hướng đến.[9]
Trong trường hợp này, Tòa kết luận ngay cả khi quy định pháp luật được Mỹ ban hành và việc áp dụng chúng bởi các tòa án Mỹ theo đuổi một mục đích công cộng hợp pháp, Mỹ đã vi phạm Khoản 1, Điều IV khi tác động tiêu cực là quá lớn so với mục đích được theo đuổi (bồi thường cho các nạn nhân của vụ đánh bom năm 1983 và các hành vi khác mà tòa án Mỹ quy trách nhiệm cho Iran).[10] Cụ thể, Điều 201(a) của TRIA và Điều 1610(g)(1) FSIA đã trao cho chính phủ Mỹ khả năng tịch thu tài sản của bất kỳ thực thể pháp lý nào liên quan đến Iran, không kể loại và mức độ kiểm soát của chính phủ Iran đối với chúng. Việc này rõ ràng đã phớt lờ pháp nhân độc lập của các công ty Iran, làm cho thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt là liên quan đến quyền sở hữu hoặc quyền lợi trong các tài sản có khả năng bị tịch thu và thực thi, của các công ty này.[11] Bên cạnh đó, Quyết định Hành chính 13599 còn phong toả tất cả tài sản của Iran và việc này rõ ràng vượt quá mức cần thiết liên quan đến mục đích theo đuổi.
Thêm vào đó, các quy định nêu trên trao cho chính phủ Mỹ khả năng tịch thu tài sản của bất kỳ thực thể pháp lý nào liên quan đến Iran, không kể loại và mức độ kiểm soát của chính phủ Iran đối với chúng, Toà cũng kết luận Mỹ đã không thực hiện nghĩa vụ tôn trọng pháp nhân độc lập của các công ty Iran theo Khoản 1, Điều III. Điều khoản này cụ thể như sau:
“Các công ty được thành lập dưới các luật và quy định có hiệu lực của bất kỳ quốc gia nào sẽ có tư cách pháp nhân của họ được công nhận tại lãnh thổ của quốc gia còn lại. Tuy nhiên, cần hiểu rõ rằng việc công nhận tư cách pháp nhân không đương nhiên cho phép các công ty tham gia vào các hoạt động mà họ được tổ chức. Theo ngữ nghĩa trong Hiệp ước hiện tại, “công ty” có nghĩa là các tập đoàn, công ty đối tác, tổ chức và hiệp hội khác, cho dù có giới hạn trách nhiệm hay không và cho dù có lợi nhuận về tiền tệ hay không.”
Tóm lại, Tòa kết luận các biện pháp của Mỹ có tác động tiêu cực quá lớn so với mục đích được theo đuổi, vi phạm Khoản I, Điều IV Hiệp ước 1957. Đồng thời, việc Mỹ phớt lờ pháp nhân độc lập của các công ty Iran cũng vi phạm Khoản 1, Điều III.
2.2. Mỹ vi phạm Khoản 2, Điều IV
Khoản 2, Điều IV quy định: “Tài sản, bao gồm quyền sở hữu tài sản, của công dân và công ty của bất kỳ nước nào sẽ nhận được sự bảo vệ liên tục nhất trong lãnh thổ của nước còn lại, và mức bảo vệ này phải không ít hơn yêu cầu theo luật pháp quốc tế. Các tài sản này không thể bị tước đoạt trừ trường hợp vì mục đích công cộng, và phải nhanh chóng bồi thường sau đó. Khoản bồi thường này phải ở dưới một hình thức thực tế và ngang bằng với giá trị của tài sản bị tước đoạt; và đã có sự sắp đặt đầy đủ vào thời điểm tước đoạt hoặc trước thời điểm đó để xác định và thanh toán bồi thường đó.”
Điều khoản này tạo ra nghĩa vụ cho Mỹ phải bảo vệ “tài sản, bao gồm quyền sở hữu tài sản, của công dân và công ty” của Iran. Những tài sản này “không thể bị tước đoạt trừ trường hợp vì mục đích công cộng, và phải nhanh chóng bồi thường sau đó”.Từ việc các biện pháp đối với tài sản do Mỹ thực hiện là bất hợp lý đã được chứng minh ở trên, Tòa thấy rằng các biện pháp của Mỹ đối với tài sản của Iran là vi phạm nghĩa vụ bảo vệ trong điều khoản nêu trên. Vì lẽ đó, Mỹ đã vi phạm Khoản 2, Điều IV.[12][1] [2] [3] [4]
2.3. Mỹ vi phạm Khoản 1, Điều X
Khoản 1, Điều X quy định về bảo đảm tự do thương mại và đi lại giữa lãnh thổ của hai quốc gia. Tòa cho rằng Quyết định Hành chính 13599 áp đặt một sự phong tỏa toàn diện về tài sản, tạo thành một rào cản đáng kể đối với bất kỳ giao dịch tài chính nào liên quan đến Iran hoặc các tổ chức tài chính Iran trong lãnh thổ Mỹ.[13] Hơn nữa, việc tịch thu và giữ lại tài sản thuộc sở hữu của các công ty nhà nước Iran theo FSIA cũng tạo thành một rào cản đối với khả năng tham gia vào hoạt động thương mại của các công ty.[14] Cuối cùng, việc áp dụng cả FSIA và TRIA bởi các tòa án Mỹ được xem là một sự can thiệp đáng kể vào thương mại của Iran trong lãnh thổ Mỹ.[15] Do vậy, Mỹ đã vi phạm Khoản 1, Điều X.
3. Biện pháp khắc phục thiệt hại
Iran yêu cầu Tòa buộc Mỹ phải: (i) dừng những hành vi vi phạm, hoặc (ii) bồi thường đầy đủ cho tổn thương do những hành vi đó gây ra, trong một số tiền sẽ được xác định ở giai đoạn sau của quy trình này, hoặc (iii) đề nghị lời xin lỗi chính thức đến Iran về những hành vi sai trái đó và những tổn thương gây ra.[16]
Tòa cho rằng bởi Hiệp ước 1957 đã hết hiệu lực vào năm 2018, tức không còn ràng buộc các bên vào thời điểm hiện tại nên Mỹ không có nghĩa vụ dừng những hành vi vi phạm.[17] Tuy nhiên, Tòa cho rằng Mỹ phải bồi thường thiệt hại và phải xin lỗi Iran một cách chính thức vì những hậu quả đã gây ra trong giai đoạn trước khi Hiệp ước hết hiệu lực.[18]
Về việc bồi thường, các bên có thời gian 24 tháng để đàm phán thống nhất việc này. Nếu các bên không thể đồng ý về số tiền bồi thường, phiên toà kế tiếp sẽ được mở để xác định số tiền bồi thường thích đáng dựa trên các bằng chứng bổ sung liên quan đến việc này.
4. Sự phát triển của học thuyết bàn tay sạch (“clean hand doctrine”)
Trong phản đối thẩm quyền trước đây, Mỹ lập luận rằng đơn kiện của Iran không thể được xét xử vì Iran đến Tòa với “bàn tay không trong sạch”. Mỹ cho rằng, kể từ Cách mạng Hồi giáo năm 1979, Iran đã tham gia vào một chiến dịch phối hợp và nhất quán nhằm thúc đẩy lợi ích chính trị của mình thông qua các hành động gây bất ổn, trái với luật pháp quốc tế. Trong giai đoạn xét xử, Mỹ tiếp tục sử dụng lập luận dựa trên học thuyết “bàn tay sạch” để yêu cầu Tòa không xét xử vụ việc.[19]
Học thuyết này có thể hiểu đơn giản là : “Người đến với công lý phải đến với bàn tay trong sạch”. Nguyên tắc này thường được diễn đạt tiếng Latin như ex delicto non oritur actio (“một hành vi bất hợp pháp không thể làm cơ sở cho một vụ kiện hợp pháp”) và ex turpi causa non oritur actio (“một vụ kiện không thể xuất phát từ một nguyên nhân bất hợp pháp”).[20]
Trong phản tố của mình, Mỹ đưa ra năm yếu tố nên xem xét để áp dụng nguyên tắc “bàn tay sạch” trong xét xử. Các yếu tố này bao gồm[21]: (i) Tồn tại một hành vi vi phạm luật quốc tế; (ii) Hành vi vi phạm được thực hiện bởi quốc gia đệ đơn kiện; (iii) Tồn tại mối liên hệ rõ ràng giữa hành vi vi phạm và nội dung của đơn kiện; (iv) Hành vi vi phạm có độ nghiêm trọng đủ để làm cho việc xét xử theo yêu cầu của Toà trở nên không công bằng hoặc không đúng đắn; và (v) Liệu có tồn tại một hành vi vi phạm nào từ nước bị kiện khiến Tòa từ chối áp dụng học thuyết “bàn tay sạch” không.
Toà xem xét học thuyết này. Trong đó, Tòa nhận thấy hai yếu tố thứ nhất và thứ ba có liên quan trong việc giải quyết phản đối thẩm quyền này. Tuy nhiên, Tòa thấy rằng “Mỹ đã không chứng minh được rằng Iran đã vi phạm Hiệp ước 1957” và không có “mối liên hệ đầy đủ giữa hành vi vi phạm được gắn cho Iran bởi Mỹ và nội dung đơn kiện của Iran”.[22] ICJ do đó kết luận rằng Mỹ chưa chứng minh đủ để áp dụng thành công nguyên tắc “bàn tay sạch”.
Dương Hải Anh
[1] ‘APPLICATION INSTITUTING PROCEEDINGS’ (ICJ) <https://www.icj-cij.org/sites/default/files/case-related/164/164-20160614-APP-01-00-EN.pdf>
[2] Tran Huu Duy Minh, ‘[111] Ngày 13.02.2019 Tòa ICJ Ra Phán Quyết Tuyên Bố Có Thẩm Quyền Xem Xét vụ Kiện Năm 2016 Giữa Iran và Mỹ’ (ius cogens) <[111] Ngày 13.02.2019 Tòa ICJ ra phán quyết tuyên bố có thẩm quyền xem xét vụ kiện năm 2016 giữa Iran và Mỹ> truy cập ngày 23/8/2023
[3] Iran v. Mỹ, Đoạn 54
[4] Iran v. Mỹ, Đoạn 54
[5] Iran v. Mỹ, Đoạn 45
[6] Iran v. Mỹ, Đoạn 51
[7] Iran v. Mỹ, Đoạn 50
[8] Iran v. Mỹ, Đoạn 159
[9] Iran v. Mỹ, Đoạn 147-149
[10] Iran v. Mỹ, Đoạn 156
[11] Iran v. Mỹ, Đoạn 150
[12] Iran v. Mỹ, Đoạn 187
[13] Iran v. Mỹ, Đoạn 220
[14] Iran v. Mỹ, Đoạn 221
[15] Iran v. Mỹ, Đoạn 221
[16] Iran v. Mỹ, Đoạn 224
[17] Iran v. Mỹ, Đoạn 228
[18] Iran v. Mỹ, Đoạn 231
[19] Iran v. Mỹ, Đoạn 77
[20] Richard Kreindler, ‘Corruption in International Investment Arbitration: Jurisdiction and the Unclean Hands Doctrine’ in Kaj Hober and others (eds), Between East and West: Essays in Honour of Ulf Franke (Juris Publication 2010) 319: ‘Reliance on the maxim ex turpi causa non oritur actio can and should be considered as another application of the Unclean Hands Doctrine’.
[21] Phản tố Iran v. Mỹ, Đoạn 8.13. Chương 8
[22] Iran v. Mỹ, Đoạn 83

Công nhận Nhà Nước Palestine