[240] Sự tham gia xây dựng luật biển quốc tế của Việt Nam trong Hội nghị Luật biển Liên hợp quốc lần thứ III (1973-1982)

Tóm tắt: Việt Nam đã đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển luật biển quốc tế, thể hiện qua việc tham gia Hội nghị Luật biển Liên hợp quốc lần thứ III (1973-1982) trực tiếp xây dựng Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và những nỗ lực thực thi và duy trì trật tự pháp lý dựa trên “bản Hiến pháp về biển và đại dương” này. Dù đang trong giai đoạn lịch sử đối mặt nhiều thách thức chính trị sống còn, Việt Nam vẫn khẳng định vai trò của mình bằng các góp ý và lá phiếu thông qua các chủ đề pháp lý trong các phiên họp của Hội nghị. Bài viết này sẽ bóc tách những đóng góp của Việt Nam từ Hồ sơ Hội nghị Luật biển lần thứ III.

Từ khoá: Công ước Luật biển, Hội nghị Luật biển, Việt Nam, biển và đại dương.

1. Giới thiệu

Hồ sơ các phiên họp trong khuôn khổ của Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển lần thứ III (1973-1982) cho thấy những tiếng nói mạnh mẽ của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia mới được giải phóng khỏi chế độ thuộc địa, bất chấp những chênh lệch đáng kể về quy mô nền kinh tế và những khác biệt về chính trị hay sức mạnh quân sự với các cường quốc đương thời. Đáng chú ý, mặc dù đang trong tình trạng hết sức căng thẳng của giai đoạn cuối cuộc chiến đấu thống nhất đất nước, Việt Nam đều đã có tiếng nói bảo vệ lợi ích chung của dân tộc; đồng thời, đóng góp vào việc thiết lập các quy định pháp luật chung của biển và đại dương.

2. Đóng góp trong xây dựng khuôn khổ pháp lý toàn cầu về biển và đại dương

2.1. Tính phổ quát (universality) của văn kiện

Từ những phiên họp đầu tiên của Hội nghị Luật Biển lần thứ III, tư cách chủ thể của các đại biểu tham dự đã được thảo luận sôi nổi. Nhằm đạt được tính phổ quát của một văn kiện pháp lý, Hội nghị đã mời một số lượng đại biểu rất lớn, đại diện cho tiếng nói của người dân ở khắp các châu lục.

Riêng đối với Việt Nam, thời gian diễn ra Hội nghị (1973-1982) cũng chính là giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ và thống nhất đất nước ở Việt Nam đang bước vào giai đoạn cuối. Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lặp lại hoà bình ở Việt Nam năm 1973 ghi nhận ở Việt Nam đồng thời tồn tại ba chính quyền: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; hai chính quyền ở phía Nam gồm chính quyền Việt Nam Cộng hoà và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Đại biểu của Việt Nam Cộng hoà tham dự với tư cách là thành viên của cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc và tiếp nối sự hiện diện ở Hội nghị Luật biển lần thứ I (1956-1958) và lần thứ II (1960) trước đó[1]. Hội nghị Luật biển lần thứ III đã mời đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng lại không mời đại biểu của Cộng hoà miền Nam Việt Nam[2]. Đáp lại lời mời, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã từ chối tham dự với lý do Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã không được mời. Trong công văn phản hồi lời mời, ông Nguyễn Duy Trinh – đại diện cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho rằng Cộng hoà miền Nam Việt Nam hoàn toàn có đủ tư cách tham dự Hội nghị[3]. Các đại biểu từ Liên Xô và Đông Âu bày tỏ tiếc nuối vì sự thiếu vắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam vì điều đó sẽ có ảnh hưởng đến tính phổ quát mà văn kiện này muốn đạt được.[4]

Vì điều kiện lịch sử như trên, trong những phiên họp đầu tiên của Hội nghị cho đến phiên họp ngày 07/5/1975, chỉ có phái đoàn của Việt Nam Cộng hoà tham dự và phát biểu ý kiến tại Hội nghị. Công văn của ông Nguyễn Duy Trinh là văn bản duy nhất mà Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gửi đến Hội nghị, còn Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã không được mời đến. Kể từ văn bản A/CONF.62/44 ngày 07/5/1975 ghi nhận sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hoà[5], các đại diện từ Việt Nam đã vắng mặt trong gần hai năm và nhanh chóng xuất hiện trở lại vào cuộc họp ngày 23/5/1977 với tư cách thành viên cơ quan chuyên môn trước khi là thành viên chính thức của Liên hợp quốc (ngày 20/09/1977).[6] Điều này cho thấy cho thấy Nhà nước Việt Nam thống nhất hết sức đề cao vấn đề luật biển, bởi lẽ chủ trương của Việt Nam là muốn làm rõ lập trường pháp lý trong nước trước, cụ thể là việc ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày 12/5/1977. Để từ đó, Việt Nam tham dự Hội nghị với tâm thế một quốc gia độc lập tự chủ, góp phần thúc đẩy các cuộc thảo luận tại Hội nghị theo chiều hướng tiến bộ và có lợi cho Việt Nam.[7] Lúc bấy giờ đại diện của Nhà nước Việt Nam thống nhất nhận được sự chào đón nồng ấm từ đại biểu các nước: Liên Xô, Cameroon, Iraq, Mauritius. Và đặc biệt, trong phiên họp ngày 13/6/1977, ông A. Yankov (Bulgaria) – chủ toạ phiên họp đã phát biểu chào mừng sự tham gia (trở lại) của Việt Nam dưới chính thể Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[8] 

Trong phiên họp ngày 15/5/1978, ông Phạm Giảng bày tỏ Việt Nam luôn nhất quán trong quan điểm ủng hộ tính phổ quát của văn kiện bằng đảm bảo sự đa dạng trong cơ cấu thành phần tham dự, trong đó, đặc biệt lưu ý đến các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.[9] Tiến trình lịch sử phi thực dân hoá này được xem như nhân tố quan trọng hàng đầu, có tính chất quyết định đến việc triệu tập Hội nghị này vì nhóm các nước này có động lực mạnh mẽ nhất trong việc đòi hỏi các quyền lợi mà trước đó các nước thực dân đã tước đoạt của họ; trong đó có các chế định luật biển đã được thiết lập từ những Hội nghị trước đó.[10]

Xét về khía cạnh sự đa dạng trong chuyên môn của các đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị, nếu như ở các kỳ Hội nghị Luật biển lần thứ I (1956-1958) hay lần thứ II (1960), đại biểu của Việt Nam đến từ phái đoàn của Việt Nam Cộng hoà là một nhóm nhỏ các chuyên gia luật quốc tế thì ở Hội nghị Luật biển lần thứ III này, các đại biểu của Việt Nam có chuyên môn ở nhiều lĩnh vực khác nhau, điển hình như dầu khí, quân sự và ngoại giao.[11] Điều này phần nào phản ánh cách tiếp cận đa ngành và tư duy quản lý biển tổng hợp của nước Việt Nam thống nhất đã nhen nhóm từ những bước đầu trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý chung cho toàn cầu đối với mọi hoạt động trên không gian biển.

Đồng thời, trước thái độ thiếu thiện chí đàm phán và lôi kéo nhiều nước không tham gia ký kết của Mỹ lúc bấy giờ, Việt Nam đã đồng hành cùng “Nhóm 77” thẳng thắng lên án hành vi trên tại những phiên họp cuối cùng và bày tỏ lạc quan về triển vọng có hiệu lực của Công ước bất chấp sự phản đối của Mỹ và một số đồng minh.[12]

2.2. Sử dụng biển vì mục đích hoà bình

Điều 301 Công ước Luật biển 1982 khẳng định lại nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc 1945 và những văn kiện quan trọng khác như một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Một sự kiện đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam trong thời gian Hội nghị diễn ra là việc Trung Quốc đã sử dụng vũ lực tấn công vào quân đội Việt Nam Cộng hoà đang đồn trú ở phía Tây quần đảo Hoàng Sa nhằm chiếm đóng bất hợp pháp các nhóm đảo này vào ngày 19/01/1974. Đối với sự kiện này, các đại biểu của Việt Nam Cộng hoà và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều đã cất tiếng nói kịch liệt phản đối hành vi sử dụng biển nhằm mục đích xâm lược của Trung Quốc tại các phiên họp và nhất quán trong việc đề cao việc sử dụng các biện pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp.

Tiếng nói đầu tiên phản đối hành vi sử dụng biển vì mục đích xâm lược của Trung Quốc đến từ ông Vương Văn Bắc – Trưởng phái đoàn của Việt Nam Cộng hoà tại Hội nghị –  trong phiên họp ngày 28/6/1974. Trong phát biểu của mình, ông Bắc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và cuộc tấn công trên đã được thông báo đến Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tiếp theo đó, ông Lê Văn Lợi tại phiên họp ngày 02/7/1974 cho rằng hành vi chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là bước đầu trong việc độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Về vấn đề giải quyết xung đột, ông Vương Văn Bắc nêu trong phiên họp ngày 28/6/1974, Việt Nam Cộng hoà đang chuẩn bị giải quyết tranh chấp liên quan đến sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Quốc bằng thương lượng hoặc các biện pháp hoà bình khác được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc 1945.[13]

Đến phiên họp ngày 03/4/1980, ông Lê Kim Chung – Trưởng phái đoàn của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – đã một lần nữa lên án sự phi pháp của hành vi sử dụng biển nhằm mục đích đe doạ đến an ninh, hoà bình và chủ quyền của Việt Nam cũng như một số nước Đông Nam Á khác đồng thời nêu bật các biện pháp giải quyết tranh chấp cần đặt trên nền tảng tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau[14]. Trong phát biểu cuối cùng tại phiên họp ngày 09/12/1982, ông Lê Kim Chung tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lên án các hành vi sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực đi ngược lại Điều 301 Công ước Luật biển 1982 và các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, cùng với đó, Việt Nam bày tỏ lập trường kiên định với các biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp.[15]

2.3. Chế định quần đảo

Mặc dù định nghĩa về quần đảo (archipelago) được nêu trong Điều 46 Công ước Luật biển 1982 chỉ áp dụng cho các quốc gia quần đảo (archipelagic State), tuy nhiên việc coi trọng chế định về quần đảo trong quá trình pháp điển hoá luật biển quốc tế cũng có sự tác động tích cực từ phía Việt Nam. Trong cuộc họp ngày 28/6/1974, ông Vương Văn Bắc đã bày tỏ sự ủng hộ với các quốc gia quần đảo vì sự đặc thù trong địa lý và sinh thái biển.[16] Theo phát biểu đại biểu của Philippines trong cuộc họp ngày 08/7/1974, Philippines trân trọng các ý kiến trên và cho rằng điều đó nâng cao sự ghi nhận của Hội nghị về chế định quần đảo. [17]

Việc quy định quốc gia quần đảo thành một phần riêng trong Công ước (Phần IV) là kết quả của những cuộc tranh cãi vì có mâu thuẫn giữa những quốc gia quần đảo và những nước sử dụng tuyến hàng hải đi qua các quần đảo.[18] Việc xây dựng quy định dành riêng cho quốc gia quần đảo cho thấy nếu các cụm đảo hay một quần thể các cấu trúc biển không cấu thành một quốc gia quần đảo theo định nghĩa của Điều 46 (a) thì các thực thể trong quần thể đó sẽ có quy chế riêng lẻ để đảm bảo quyền lợi của các nước khác trong việc sử dụng vùng biển lân cận.

2.4. Chế định về lãnh hải và đường cơ sở

Công ước 1982 có bổ sung một vài điểm nhỏ về việc kẻ đường cơ sở từ những bãi cạn. Nếu như tại Điều 4 (3) Công ước 1958 quy định rẳng đường cơ sở không được chạy qua hoặc kéo dài từ những bãi cạn chỉ nhô lên khi nước thuỷ triều rút, trừ phi trên những bãi cạn đó có các công trình luôn cao hơn mặt nước thì tại Điều 7 (4) Công ước 1982 có bổ sung thêm yếu tố sự công nhận chung của quốc tế để tăng khả năng một bãi cạn được dùng làm điểm kẻ đường cơ sở. Ông Vương Văn Bắc trong phiên họp ngày 28/6/1974 đã nêu quan điểm của Việt Nam ủng hộ chiều rộng của lãnh hải tính từ đường cơ sở là 12 hải lý.[19] Trong phiên phát biểu tổng kết chủ đề “lãnh hải” ngày 17/7/1974, ông Lê Văn Lợi đã nêu bật phương pháp xác định đường cơ sở cần phải kẻ từ những điểm nhô ra xa nhất của lãnh thổ vùng đất quốc gia bất kể trên đất liền hay trên hải đảo.[20]

Trong phát biểu cuối cùng tại phiên họp ngày 09/12/1982, ông Lê Kim Chung nhắc lại một số hành động từ phía Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện cam kết thực thi Công ước vừa mới được thông qua, bao gồm việc ban hành Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngày 12/5/1977 và đồng thời nhấn mạnh các vùng biển trên được xác lập dựa trên Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12/11/1982. [21]

2.5. Chế định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa

Chế định vùng đặc quyền kinh tế là một vấn đề pháp lý mới được đặt ra ở Hội nghị Luật biển lần thứ III này. Vùng biển mới này được hình thành xuất phát từ lợi ích và nhu cầu của các nước ven biển đang phát triển đấu tranh nhằm mở rộng quyền hạn của mình trong lĩnh vực kinh tế để có thêm nguồn lực cho sự phát triển của quốc gia. Ngược lại, các nước công nghiệp phát triển chống lại chủ trương này vì bên cạnh lợi ích kinh tế đối với các nguồn tài nguyên, các nước vốn từ lâu thống trị các tuyến đường biển lo ngại sẽ bị cản trở các quyền hàng hải mà họ đã thực hiện từ lâu.

Ông Vương Văn Bắc trong phiên họp ngày 28/6/1974 nhắc lại việc vào năm 1972, Việt Nam Cộng hoà đã tuyên bố một vùng đánh cá (fishery zone) rộng 50 hải lý bên ngoài lãnh hải, tuy nhiên giới hạn này sẽ được xem xét lại tuỳ theo kết quả của các cuộc thương lượng trong Hội nghị lần này.[22] Sau này, vào ngày 12/5/1977, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra tuyên bố xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở theo tinh thần thống nhất với kết luận của Hội nghị Luật biển lần thứ III.

Bên cạnh đó, vấn đề ranh giới ngoài của thềm lục địa có vị trí hết sức quan trọng và cũng thể hiện sự mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các quốc gia có thềm lục địa dài, hẹp hoặc không có thềm lục địa (không có biển). Trong phiên họp ngày 30/7/1974, ông Nguyễn Hữu Chí thể hiện quan điểm đồng thuận với cách tính 200 hải lý cách đường cơ sở đồng thời bảo vệ quan điểm thềm lục địa cần được vươn ra hết rìa thềm lục địa tự nhiên.[23] Trải qua nhiều phiên họp, cách tính “kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý” đã trở thành quy định tại Điều 76 (1) Công ước 1982. Đối với các tranh chấp phân định thềm lục địa, ông Vương Văn Bắc khẳng định trong phiên họp ngày 28/6/1974 Việt Nam muốn giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh thông qua đàm phán song phương hoặc có thể áp dụng các thiết chế tài phán quốc tế phù hợp.[24]

Trong cuộc họp ngày 03/4/1980, ông Lê Kim Chung thể hiện quan điểm của Việt Nam về ranh giới ngoài của thềm lục địa mở rộng: trong mọi trường hợp cũng không vượt quá 350 hải lý. Thêm vào đó, ông Lê Kim Chung đề xuất Điều 96 của Công ước 1982 quy định về quyền miễn trừ của các tàu thuyền chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại cần bao hàm cả phương tiện bay.[25] Tuy nhiên đề xuất này không được ghi nhận. Tiếp đến, tại phiên họp ngày 27/8/1980, ông Lê Kim Chung nhấn mạnh nguyên tắc công bằng (equity) trong việc phân định biển, trong đó có sự cân nhắc đến các yếu tố hoàn cảnh liên quan.[26] Phát biểu của ông Lê Kim Chung trong phiên họp ngày 09/12/1982 đã đúc kết lại lập trường tuân thủ quy định của Công ước bằng việc nêu bật hai bản tuyên bố về các vùng biển (1977) và đường cơ sở (1982) của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện rõ tinh thần và nội dung của Công ước mới. [27]

2.6. Chế định vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia trên biển

Ngay từ những phiên họp đầu tiên, ông Vương Văn Bắc đã bày tỏ sự ủng hộ việc thành lập Cơ quan Quyền lực Đáy đại dương nhằm quản trị các vấn đề hành chính, kinh tế và kỹ thuật của vùng biển được xem là di sản chung của nhân loại.[28] Tiếp nối quan điểm đó, trong cuộc họp ngày 15/7/1974, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan cho rằng thiết chế Cơ quan quyền lực chung này sẽ mang đến lợi ích cho toàn thể nhân loại với những cân nhắc cần thiết cho lợi ích và nhu cầu của các nước đang phát triển. Để được như vậy, các quốc gia thành viên của Công ước mới cũng cần phải là thành viên trong Cơ quan quyền lực này, để cùng kiểm soát việc khai thác nguồn tài nguyên dưới đáy biển và có thẩm quyền ban hành các quy định cần thiết nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên. Và đặc biệt, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan nhấn mạnh đến nguyên tắc phân bố đồng đều đại diện các khu vực địa lý (the principle of equitable geographical distribution) và tất cả các quốc gia phải bình đẳng trong quá trình đưa ra quyết sách.[29] Những nội dung này một lần nữa được lặp lại trong phiên kết luận chủ đề này vào ngày 17/7/1974. Phái đoàn của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau này đã bỏ phiếu thuận cho Văn kiện A/CONF.62/79 liên quan đến các vấn đề khai thác tài nguyên đáy biển trong cuộc họp tháng 6/1979.[30] Văn kiện A/CONF.62/79 có những nội dung đáng chú ý và là tiền đề của Phần XI về Đáy đại dương (the Area) Công ước 1982: Yêu cầu tất cả các quốc gia kiềm chế việc thông qua luật pháp nội địa hoặc bất kỳ biện pháp nào khác nhằm tiếp tục khai thác đáy đại dương, cũng như lòng đất dưới đáy biển, vượt ra ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia, cho đến khi một chế độ quốc tế được Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển thông qua; Cảnh báo rằng các quốc gia có thể thực hiện các hành động đơn phương như vậy sẽ phải chịu trách nhiệm về hậu quả của chúng đối với tác động của chúng đối với Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển và đối với các cuộc đàm phán liên quan đến việc khai thác tài nguyên dưới đáy biển.[31]

2.7. Chế định về quyền và nghĩa vụ các quốc gia thành viên Công ước Luật Biển 1982

Hội nghị Luật biển lần thứ III đã họp các phiên cuối cùng từ ngày 04-10/12/1982, Việt Nam đã cùng với 118 nước khác đã ký vào ngày đầu tiên. Đây được xem như sự kiện chính trị và pháp lý chưa từng thấy trong lịch sử pháp luật quốc tế.[32] Trong bài phát biểu khi ký vào Công ước ngày 09/12/1982, ông Lê Kim Chung đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới cam kết thực hiện Công ước của Việt Nam:

Là một nước có biển và hơn nữa là một nước ở ven một biển nửa kín mà chúng tôi gọi là Biển Đông, Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy hợp tác nhằm sử dụng hợp lý biển vì lợi ích của tất cả các nước. Nước chúng tôi mong muốn thúc đẩy sự hợp tác tích cực với các nước ven Biển Đông phù hợp với Điều 123 của Công ước, vì một sự hợp tác như vậy đáp ứng những nguyện vọng của nước chúng tôi đã được nói đến nhiều lần để góp phần phát triển những quan hệ hữu nghị, chính trị, kinh tế và các mặt khác giữa các nước Đông Nam Á nhằm biến khu vực này thành một khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và thịnh vượng.[33] 

Đáng chú ý, bài diễn văn của ông Lê Kim Chung kết thúc bằng sự lạc quan với niềm tin sự đoàn kết kiên định và sự cảnh giác mạnh mẽ của các nước đang phát triển và các nước xã hội chủ nghĩa, những nước đã thông qua Công ước Luật Biển, chắc chắn sẽ tiếp tục ngăn chặn mọi nỗ lực nhằm làm suy yếu hiệu lực của Công ước hoặc đi ngược lại các mục tiêu của Công ước. [34] 

Ngày 23/6/1994, Việt Nam trở thành quốc gia thứ 63 phê chuẩn Công ước Luật biển năm 1982, trước khi Công ước chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam đã khẳng định rõ, bằng việc phê chuẩn này, Việt Nam “biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.[35]

3. Kết luận

Việt Nam đã đóng góp một cách tích cực và có trách nhiệm vào việc hình thành cũng như duy trì trật tự pháp lý quốc tế về biển, thể hiện qua vai trò của mình trong quá trình xây dựng Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Dù trong bối cảnh chính trị phức tạp khi diễn ra Hội nghị, Việt Nam đã không chỉ khẳng định lập trường bảo vệ lợi ích chung của dân tộc một cách khảng khái mà còn tích cực tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến thiết thực cho nhiều chủ đề then chốt trong các phiên họp của Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển lần thứ III từ năm 1973-1982. Điều này minh chứng cho sự quyết tâm của Việt Nam trong việc thiết lập các nguyên tắc pháp lý chung cho biển và đại dương.

Trần Thị Kim Nguyên

Khoa Luật – Trường Đại học Mở Tp. HCM

Danh mục tài liệu tham khảo


[1] Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên hợp quốc 1105 (XI) và 1307 (XIII).

[2] Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc 3067 (XXVIII).

[3] Nguyên văn: “full legal competence to participate in the work of all international conferences and organizations affecting the destiny of nations”. A cable dated 22 November 1973, from Democratic Republic of Vietnam Minister of Foreign Affairs Nguyen Duy Trinh to the U.N. secretary-general, circulated as General Assembly Doc. A/9350

[4] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 1: Summary Records of Plenary Meetings of the First and Second Sessions, and of Meetings of the General Committee, Second Session: New York, 3-15 December 1973; Caracas, 20 June – 29 August 1974. [https://digitallibrary.un.org/record/858066?ln=en&v=pdf]

[5] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 3: Documents of the Conference, First and Second Sessions: New York, 3-15 December 1973; Caracas, 20 June – 29 August 1974. [https://digitallibrary.un.org/record/858063?ln=en&v=pdf]

[6] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 7: Summary Records, Plenary, General Committee, First, Second and Third Committees, as well as Documents of the Conference, Sixth Session, New York, 23 May-15 July 1977. [https://digitallibrary.un.org/record/58735?ln=en&v=pdf]

[7] Phạm Giảng (1983), Luật biển – những vấn đề cơ bản theo Công ước 1982, NXB Pháp lý, tr. 206.

[8] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records, Tlđd, xem chú thích số 6.

[9] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 9: Summary Records, Plenary, General Committee, First, Second and Third Committees, as well as Documents of the Conference, Seventh and Resumed Seventh Session: Geneva, 28 March – 19 May 1978; New York, 21 August – 15 September 1978. [https://digitallibrary.un.org/record/858057?ln=en&v=pdf]

[10] Phạm Giảng (1983), Tlđd, xem chú thích số 7, tr. 14-15.

[11] Farrell, E. C. (2021), The Socialist Republic of Vietnam and the Law of the Sea, Leiden, The Netherlands: Brill Nijhoff. https://doi-org.peacepalace.idm.oclc.org/10.1163/9789004479302, tr. 36.

[12] Third United Nations Conference on the Law of the Sea. Official Records. Volume 17: Plenary Meetings, Summary Records and Verbatim Records, as well as Documents of the Conference, Resumed Eleventh Session and Final Part Eleventh Session and Conclusion, Montego Bay, 6 to 10 December 1982. [https://digitallibrary.un.org/record/81862?ln=en&v=pdf]

[13] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 4.

[14] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 13: Summary Records, Plenary, General Committee, First and Third Committees, as well as Documents of the Conference, Ninth Session, New York, 3 March – 4 April 1980. [https://digitallibrary.un.org/record/19737?ln=en&v=pdf]

[15] Third United Nations Conference on the Law of the Sea. Official Records. Tlđd, xem chú thích số 12.

[16] Nguyên văn: “It demanded the recognition of the exclusive rights of coastal States over the patrimonial sea, sea-bed and subsoil and over their continental shelf. It would consider with sympathy and understanding the legitimate claim of archipelagic and land-locked States and those of developing coastal States unable to establish wide areas of national jurisdiction because they were surrounded by narrow seas or because of other geographical or ecological factors.” Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 4.

[17] Nguyên văn: “[…] interpreted them as giving due recognition to the issue of archipelagos in the codification of the law of the sea”. Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 4

[18] Phạm Giảng (1983), Tlđd, xem chú thích số 7, tr. 107

[19] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 4

[20] Nguyên văn: “The baselines should be drawn between the outermost points of the national territory, whether continental or insular.” Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 2: Summary Records of Meetings of the First, Second and Third Committees, Second Session: Caracas, 20 June – 29 August 1974. [https://digitallibrary.un.org/record/858065?ln=en&v=pdf]

[21] Third United Nations Conference on the Law of the Sea. Official Records. Tlđd, xem chú thích số 12

[22] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 4

[23] Nguyên văn: “The baselines should be drawn between the outermost points of the national territory, whether continental or insular.” Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 20

[24] Nguyên văn: “[…] was prepared to resolve any differences that might arise between its neighbours and itself through bilateral negotiations or by recourse to appropriate international jurisdiction.” Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 4.

[25] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 13: Summary Records, Plenary, General Committee, First and Third Committees, as well as Documents of the Conference, Ninth Session, New York, 3 March – 4 April 1980. [https://digitallibrary.un.org/record/19737?ln=en&v=pdf]

[26] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 14 : Summary Records, Plenary, General Committee, First and Third Committees, as well as Documents of the Conference, Resumed Ninth Session ; Geneva, 28 July – 29 August 1980. [https://digitallibrary.un.org/record/858050?ln=en&v=pdf]

[27] Third United Nations Conference on the Law of the Sea. Official Records. Tlđd, xem chú thích số 12.

[28] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 4.

[29] Nguyên văn: “A sound international regime would ensure that the exploration of the area beyond the limits of national jurisdiction and the exploitation of its resources were carried out for the benefit of mankind as a whole, with particular consideration of the interests and needs of other developing countries. All States parties to the future convention should be members of the Authority, which must have full control over the exploitation of the resources of the sea-bed in the area and the competence to adopt the necessary regulations for the conservation of its living resources.” Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 20.

[30] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Volume 12: Summary Records, Plenary, General Committee, First and Third Committees, as well as Documents of the Conference, Resumed Eighth Session : New York, 19 July – 24 August 1979

[31] Third United Nations Conference on the Law of the Sea, Official Records. Tlđd, xem chú thích số 30

[32] Phạm Giảng (1983), Tlđd, xem chú thích số 7, tr. 199

[33] Third United Nations Conference on the Law of the Sea. Official Records. Tlđd, xem chú thích số 12.

[34] Third United Nations Conference on the Law of the Sea. Official Records. Tlđd, xem chú thích số 12.

[35] Điểm 2, Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 ngày 23/6/1994.

1 bình luận về “[240] Sự tham gia xây dựng luật biển quốc tế của Việt Nam trong Hội nghị Luật biển Liên hợp quốc lần thứ III (1973-1982)

Add yours

  1. sublime! 20 2025 [241] Hợp tác bảo vệ môi trường biển trong pháp luật quốc tế satisfying

Bình luận về bài viết này

Tạo một blog trên WordPress.com

Lên ↑