[238] Xác lập đường biên giới trên sông suối [Phần 1]

Toàn bộ sông suối – Bờ – Một đường trên sông suối (thalweg, trung tuyến, hoặc đường phân chia khác)

Việc tạo lập đường biên giới trên sông suối có những đặc trưng nhất định, bởi sông suối là yếu tố “động” trên thực địa. Khác với các yếu tố tự nhiên khác (ví dụ, sống núi) được sử dụng để xác định đường biên giới trên bộ, chính đặc điểm thủy văn của sông suối làm cho việc tạo lập đường biên giới trên sông suối không có công thức chung[1]. Trong thực tiễn quốc tế, đường biên giới trên sông suối có thể được chia thành 03 loại gồm: (i) toàn bộ sông suối, (ii) bờ và (iii) một đường trên sông suối (thalweg, trung tuyến, hoặc đường phân chia khác).

I. Toàn bộ sông suối

Khi sông suối được xem như ranh giới phân chia lãnh thổ của các quốc gia, đường biên giới sẽ được tạo thành bởi hai bờ và do đó, chính sông suối trở thành khu vực biên giới thuộc chủ quyền chung (coimperium)[2]. Ví dụ, Điều XXVII của Hiệp ước Meppen ngày 26/6/1816 giữa Hà Lan và Phổ ghi nhận: “Trong mọi trường hợp khi suối hoặc sông tạo thành khu vực biên giới, chúng sẽ là chung cho cả hai quốc gia…”. Nội dung này cũng tiếp tục được thể hiện trong Hiệp ước ngày 08/4/1960 giữa Hà Lan và Đức liên quan đến các thỏa thuận hợp tác tại cửa sông Ems (Hiệp ước Ems-Dollard). Thoạt nhìn, việc sông suối thuộc chủ quyền chung có thể phù hợp với nguyên tắc sử dụng hợp lý và công bằng nguồn nước quốc tế, song trên thực tế và cả trên phương diện pháp lý, không có ranh giới nào để một bên đơn phương thực thi chủ quyền và quyền tài phán của mình tại khu vực này và vì vậy, gây khó khăn cho việc sử dụng nguồn nước chung nếu không có thỏa thuận khác.

II. Bờ

Khi một bên bờ được xác định là đường biên giới, toàn bộ sông suối lúc này sẽ thuộc chủ quyền của một quốc gia. Một số điều ước quy định về loại đường biên giới này có thể kể đến như: Hiệp ước ngày 18/9/1773 liên quan đến sông Netze giữa Ba Lan và Phổ, Hiệp ước ngày 10/8/1797 giữa Pháp và Bồ Đào Nha liên quan đến sông Vincent Pinson ở Nam Mỹ, hay Hiệp ước ngày 26/3/1928 giữa Hà Lan và Anh liên quan đến sông Odong ở Borneo. Trên thực tế, hoạch định biên giới đi theo một bên bờ sông suối chỉ được áp dụng trong hai trường hợp là: (i) sự bất cân xứng giữa hai quốc gia và đường biên giới được tạo lập là kết quả của chính trị; hoặc (ii) khi một bên không quan tâm đến sông suối biên giới này.[3]

Để xác định bờ làm đường biên giới trước tiên cần xác định mực nước tại một giai đoạn nhất định[4]. Theo đó, mực nước cao sẽ có lợi cho quốc gia có chủ quyền đối với toàn bộ sông suối, và ngược lại mực nước thấp có lợi cho quốc gia còn lại. Tuy nhiên, trong trường hợp không có đặc điểm kỹ thuật về bờ sông suối, mực nước thấp sẽ là cơ sở để xác định bờ làm đường biên giới do đất khô ở mực nước thấp là một phần tự nhiên và không thể tách rời của bờ, và do đó có thể được kiểm soát tốt nhất từ bờ đó.[5]

III. Một đường trên sông suối

Có hai phương pháp cơ bản để hoạch định biên giới đi theo một đường trên sông suối là (i) thalweg (đường nối các điểm sâu nhất dọc theo dòng chảy của sông hoặc lòng thung lũng) và (ii) trung tuyến (medium filum acquae), phụ thuộc vào sông suối tàu thuyền đi lại được hay không.

1. Đối với sông suối tàu thuyền đi lại được (thalweg)

Thuật ngữ “thalweg” thường được sử dụng trong các điều ước quốc tế mà không có giải thích gì thêm, chẳng hạn như trong Hiệp ước biên giới ngày 04/7/1937 giữa Iraq và Iran hay Thỏa thuận ngày 01/7/1890 giữa Anh và Đức liên quan đến Zanzibar, Heligoland và vùng ảnh hưởng của hai quốc gia ở châu Phi… Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XX, chính Thỏa thuận năm 1890 nêu trên đã trở thành đối tượng được Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) giải thích trong vụ tranh chấp đảo Kasikili/Sedudu giữa Botswana và Namibia (13/12/1999). Đảo Kasikili (Namibia)/Sedudu (Botswana) nằm trên sông Chobe bắt nguồn từ Angola, đi qua Namibia, Zambia, Botswana và hợp lưu với sông Zambezi. Sự tranh giành châu Phi của các cường quốc châu Âu vào thế kỷ XIX đã dẫn đến việc ký kết một số điều ước giữa các quốc gia đó nhằm phân chia phạm vi ảnh hưởng cũng như biên giới/ranh giới giữa các nước thuộc địa của mình, trong đó có Thỏa thuận năm 1890 giữa Anh và Đức, đặt Tây Nam Phi dưới sự thống trị của Đức và Bechuanaland thuộc Anh.

Tranh chấp đối với đảo Kasikili/Sedudu xảy ra trước cả khi hai nước trở thành quốc gia độc lập và trở thành tranh chấp chính trị sau khi Namibia độc lập vào năm 1990. Botswana và Namibia đều tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo dựa trên cách giải thích Thỏa thuận năm 1890. Cụ thể, Điều III của Thỏa thuận quy định:

“Ở Tây Nam Phi, khu vực chịu sự ảnh hưởng của Đức được giới hạn:
1. Về phía Nam bởi một đường bắt đầu từ cửa sông Orange, và đi lên bờ phía Bắc của sông đó tới giao điểm của nó với kinh tuyến 20 của kinh độ đông.
2. Về phía Đông bởi một đường bắt đầu từ điểm nêu trên, và đi theo kinh tuyến 20 của kinh độ đông tới giao điểm của nó với vĩ tuyến 22 của vĩ độ nam; đi theo hướng đông dọc vĩ tuyến đó tới giao điểm của nó với kinh tuyến 21 của kinh độ đông; sau đó đi theo kinh tuyến đó về hướng bắc tới giao điểm của nó với vĩ tuyến 18 của vĩ độ nam; đi theo hướng đông dọc vĩ tuyến đó cho đến sông Chobe, và đi xuống trung tâm luồng chính (the centre of the main channel/Thalweg des Hauptlaufes) của sông đó tới ngã ba với sông Zambesi nơi nó kết thúc…”

Theo Tòa, các khái niệm về thalweg của dòng (thalweg of a watercourse) và trung tâm dòng (centre of a watercourse) không tương đương với nhau. Từ “thalweg” có nhiều nghĩa khác nhau như: “luồng phù hợp nhất cho hàng hải (the most suitable channel for navigation)” trên sông; đường “được xác định sâu nhất (determined by the line of deepest soundings)”; hay “trung tuyến luồng chính mà thuyền xuôi dòng (the median line of the main channel followed by boatmen travelling downstream)”. Các điều ước quốc tế xác định đường biên giới trên sông suối ngày nay thường đề cập đến thalweg như là đường biên giới trên sông suối mà tàu thuyền đi lại được. ICJ nhận định rằng, tại thời điểm ký kết Thỏa thuận năm 1890, có thể thuật ngữ “centre of the main channel” (trong bản tiếng Anh) và “Thalweg des Hauptlaufes” (trong bản tiếng Đức) được sử dụng thay thế cho nhau. Đồng thời, trong quá trình tố tụng, bản thân Botswana và Namibia không thể hiện bất kỳ ý kiến khác biệt thực sự nào về vấn đề này.[6] Mặc dù vậy, Tòa cho rằng thuật ngữ “thalweg” thể hiện một cách chính xác mục đích khai thác hàng hải hơn thuật ngữ “centre of the main channel”. Vì vậy, đây là thuật ngữ mà ICJ coi là mang tính quyết định.[7]  

Theo quan điểm của Tòa, tranh chấp thực sự giữa các bên liên quan đến vị trí của luồng chính (đường biên giới). Đối với Botswana, luồng chính được xác định “trên cơ sở thalweg của luồng phía Bắc và Tây sông Chobe”, theo đó đảo tranh chấp thuộc lãnh thổ của Botswana.

Hình 1 – Bản đồ thể hiện hai luồng Bắc và Tây sông Chobe theo Botswana
(Nguồn: ICJ)

Trong khi đó, Namibia cho rằng luồng chính nằm ở trung tâm luồng phía Nam của sông Chobe và vì vậy, đảo tranh chấp thuộc lãnh thổ của Namibia.

Hình 2 – Hình ảnh thể hiện luồng phía Nam sông Chobe theo Namibia
(Nguồn: ICJ)

Các tiêu chí Botswana đưa ra để xác định luồng chính bao gồm độ sâu và chiều rộng lớn nhất, mặt cắt lòng sông, hình dáng, khả năng tàu thuyền đi lại được, lưu lượng nước lớn, dung tích luồng, vận tốc dòng chảy và lưu lượng dòng chảy của sông Chobe. Mặt khác, Namibia đưa ra các tiêu chí là chiều rộng, độ sâu, vận tốc, lưu lượng và khả năng vận chuyển trầm tích. Tòa án đã quyết định không dựa vào một tiêu chí duy nhất để xác định luồng chính của sông Chobe quanh đảo do các đặc điểm tự nhiên của một dòng sông có thể thay đổi rõ rệt theo dòng chảy của nó và tùy từng trường hợp.

Trong các tiêu chí được xem xét, về khả năng tàu thuyền đi lại được, ICJ xác định rằng khả năng này của sông là kết quả tổng hợp của độ sâu, chiều rộng và khối lượng nước, có tính đến các chướng ngại vật tự nhiên như thác, ghềnh và các điểm nông. Theo đó, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, khả năng tàu thuyền đi lại được của sông Chobe rất khác nhau; đồng thời, khả năng tàu thuyền đi lại được của hai luồng quanh đảo Kasikili/Sedudu cũng bị giới hạn bởi độ nông của chúng. Từ đây, Tòa án có quan điểm rằng, luồng chính của sông Chobe là luồng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khả năng tàu thuyền đi lại được, và trong đó, luồng phía Bắc đáp ứng được tiêu chí này.[8] 

Cuối cùng, từ các cơ sở đã xem xét, Tòa kết luận đường biên giới giữa Botswana và Namibia đi theo luồng chính phía Bắc của sông Chobe quanh đảo Kasikili/Sedudu; đồng thời, đảo này tạo thành một phần lãnh thổ của Botswana.

Bên cạnh cách giải thích của ICJ trong vụ tranh chấp đảo Kasikili/Sedudu giữa Botswana và Namibia, cũng có một số điều ước giải thích thuật ngữ “thalweg” như: Hiệp ước ngày 30/01/1827 giữa Pháp và Phổ[9], Hiệp ước về biên giới quốc gia và quan hệ láng giềng giữa Iran và Iraq (Nghị định thư về hoạch định biên giới trên sông)[10]

2. Đối với sông suối tàu thuyền không đi lại được (trung tuyến)

Hugo Grotius được cho là đã đề ra phương pháp trung tuyến bằng việc nối tất cả các điểm cách đều với điểm gần nhất hoặc các điểm đối diện hai bên bờ sông suối.[11] Trong thực tiễn pháp lý, mặc dù được giải quyết bởi tòa án quốc gia, song Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong vụ việc giữa bang Georgia và bang Nam Carolina liên quan đến vị trí của đường ranh giới dọc sông Savannah đã nhận định: “[đ]ường trung tuyến giữa hai bờ sông, hay medium filum acquae,… dễ dàng được xác định bởi tất cả các điểm cách đều các điểm gần nhất trên bờ đối diện”[12]

Tuy nhiên, trên thực tế, mực nước sông suối luôn thay đổi, dẫn đến việc bất kỳ sự thay đổi nào của mép nước cũng có thể làm thay đổi vị trí của đường trung tuyến. Mặc dù vậy, phương pháp này bảo đảm các quốc gia liên quan có quyền bình đẳng trong việc sử dụng và khai thác nguồn nước chung. Với ưu điểm này, thực tiễn của các quốc gia trong thế kỷ XIX, XX đã cho thấy phương pháp trung tuyến thường được áp dụng trong hoạch định biên giới trên sông suối, đặc biệt là trong trường hợp sông suối tàu thuyền không đi lại được.[13]

Có thể thấy, phương pháp thalweg và phương pháp trung tuyến đều có ý nghĩa bảo đảm quyền bình đẳng giữa các nước ven sông suối trong việc sử dụng nguồn nước liên quốc gia. Tuy nhiên, phương pháp thalweg và phương pháp trung tuyến có một số điểm khác nhau cơ bản là:

(i) Trong khi phương pháp trung tuyến áp dụng đối với sông suối tàu thuyền không đi lại được, phương pháp thalweg lại áp dụng đối với sông suối tàu thuyền đi lại được nhằm bảo vệ quyền đi lại bình đẳng giữa các quốc gia ven sông suối biên giới.

(ii) Thalweg, như nhận định của ICJ, có nhiều cách giải nghĩa khác nhau[14], nhưng chủ yếu dựa trên cấu tạo địa lý của sông suối và thuận lợi cho tàu thuyền đi lại; còn trung tuyến là đường nối tất cả các điểm cách đều với điểm gần nhất hoặc các điểm đối diện hai bên bờ sông suối.

(iii) Đường trung tuyến có thể dễ dàng được cố định, nhưng điều này lại khó khăn hơn với thalweg, đặc biệt là khi dòng sông tách thành hai hoặc nhiều nhánh do xuất hiện các đảo, cồn, bãi – lám gián đoạn sự tiếp nối của thalweg.[15] Trong trường hợp này, các quốc gia có thể hoạch định biên giới đi theo luồng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hàng hải như kết luận của ICJ trong vụ tranh chấp đảo Kasikili/Sedudu nêu trên.

* Ngoài hai phương pháp trên, trên thực tế, các quốc gia cũng sử dụng các đường phân chia khác để hoạch định biên giới trên sông suối. Ví dụ, trong Hiệp ước biên giới ngày 02/3/1963 giữa Trung Quốc và Pakistan, khoản 1 Điều 3 ghi nhận đường biên giới là “đường trung tâm của lòng sông (middle line of the river bed)”.

[còn tiếp]

Vũ Quốc Tuấn


[1] Gideon Biger (1988), “Physical Geography and Law: The Case of International River Boundaries”, GeoJournal, vol.17, no.3, p.342.

[2] L. J. Bouchez (1963), “The Fixing of Boundaries in International Boundary Rivers”, The International and Comparative Law Quaterly, vol.12, no.3, p.790; Gideon Biger (1988), tlđd, p.342.

[3] L. J. Bouchez (1963), tlđd, p.791.

[4] Gideon Biger (1988), tlđd, p.342.

[5] L. J. Bouchez (1963), tlđd, p.792.

[6] Kasikili/Sedudu Island (Botswana v Namibia) (Judgment) [1999] ICJ Reports, para.24-25.

[7] Kasikili/Sedudu Island (Botswana v Namibia) (Judgment) [1999] ICJ Reports, para.89.

[8] Kasikili/Sedudu Island (Botswana v Namibia) (Judgment) [1999] ICJ Reports, para.40.

[9] Điều IX Hiệp ước ngày 30/01/1827 giữa Pháp và Phổ quy định: “Thalweg của sông Rhine là luồng phù hợp nhất cho tàu thuyền đi lại xuôi dòng ở mực nước thông thường thấp nhất”.

[10] Điều 2(1) của Nghị định thư về hoạch định biên giới trên sông giữa Iran và Iraq quy định: “Đường biên giới trên sông Shatt al’Arab đi theo thalweg, nghĩa là trung tuyến luồng hàng hải ở mực nước thông thuyền thấp nhất…”.

[11] Gideon Biger (1988), tlđd, p.342.

[12] Georgia v South Carolina [1990], 497 U.S. 376, https://supreme.justia.com/cases/federal/us/497/376/

[13] Gideon Biger (1988), tlđd, p.342-343.

[14] Kasikili/Sedudu Island (Botswana v Namibia) (Judgment) [1999] ICJ Reports, para.24.

[15] L. J. Bouchez (1963), tlđd, p.794.

1 bình luận về “[238] Xác lập đường biên giới trên sông suối [Phần 1]

Add yours

Bình luận về bài viết này

Tạo một blog trên WordPress.com

Lên ↑