Bối cảnh của vụ việc – Nội dung phán quyết – Nhận xét ngắn.
Ngày 28.01.2021, Viện Đặc biệt (Special Chamber) thuộc Toà án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) đã đưa ra phán quyết đầu tiên trong Vụ phân định ranh giới biển giữa Mauritius và Maldives trên Ấn Độ Dương. Viện Đặc biệt cho rằng mình có thẩm quyền để thụ lý và xét xử tranh chấp giữa hai quốc gia. Sau đó, vào ngày 28.4.2023, ITLOS đã ra phán quyết cuối cùng cho vụ tranh chấp này
Xem Tóm tắt Phán quyết ngày 28.01.2021 (Vie), Toàn văn Phán quyết ngày 28.4.2023 (Eng).
1. Bối cảnh vụ việc
Vào ngày 23.8.2019, Mauritius gửi thông báo khởi kiện Maldives liên quan đến tranh chấp phân định biển giữa hai nước. Theo thông báo khởi kiện của Mauritius, vụ việc được đệ trình theo thủ tục trọng tài được quy định tại Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) – đây là thủ tục được áp dụng trong Vụ kiện Biển Đông giữa Philipines và Trung Quốc. Với sự tham vấn của Chánh án Tòa ITLOS, hai nước đồng ý chuyển vụ việc sang xét xử tại một Viện Đặc biệt (Viện) thuộc ITLOS.
Thoả thuận đặc biệt đệ trình tranh chấp lên Viện Đặc biệt được ký vào ngày 24.9.2019, trong đó viện dẫn Điều 15(2) của Quy chế Tòa ITLOS về việc “Toà sẽ thành lập một viện để xử lý một tranh chấp cụ thể được đệ trình lên Toà nếu các bên có yêu cầu. Thành phần của viện sẽ được Toà quyết định với sự chấp nhận của các bên” và quy định Viện sẽ có 09 thành viên bao gồm 07 thẩm phán đương nhiệm của ITLOS và hai thẩm phán ad hoc.
Ngay từ đầu, Maldives cho rằng Viện không có thẩm quyền và đưa ra năm lý do phản đối thẩm quyền của Viện trong tranh chấp này. Tuy nhiên, vào ngày 28.01.2021, Viện đưa ra phán quyết cho rằng Viện có thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ việc và vào ngày 28.4.2023, Viện đưa ra phán quyết để giải quyết các vấn đề cuối cùng trong tranh chấp.
2. Nội dung phán quyết
2.1. Thẩm quyền của Viện Đặc biệt
Phán quyết ngày 28.4.2023 nhắc lại vấn đề về thẩm quyền của Viện được đã được đưa ra phán quyết ngày 28.01.2023 (xem chi tiết tại post này).
2.2. Phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong phạm vi 200 hải lý
Phương pháp phân định
Viện Đặc biệt đã dẫn chiếu quy định tại Điều 74(1) và Điều 83(1) UNCLOS 1982 về phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các Quốc gia có bờ biển đối diện hoặc liền kề và các bên cũng đều đồng ý các quy định trên điều chỉnh việc phân định này.
Viện áp dụng phương pháp ba bước trong phân định biển (“three-stage approach”) để phân định vùng biển chồng lấn giữa Mauritius và Maldives do cả hai bên đồng ý với việc sử dụng phương pháp này. Phương pháp ba bước này thay thế cho phương pháp hai bước trước đây các cơ quan tài phán sử dụng trong phân định biển. Trong khi phương pháp hai bước bao gồm việc một đường cách đều sẽ được vẽ làm đường phân định tạm thời và sau đó xem xét các hoàn cảnh hữu quan để điều chỉnh lại đường tạm thời đó, phương pháp ba bước bổ sung thêm một bước kiểm tra lại liệu đường tạm thời đã đạt được một kết quả công bằng. Công thức ba bước được ICJ đúc kết trong Vụ phân định biển giữa Ukraine và Romania năm 2009. Và sau này công thức được áp dụng trong một số vụ việc như Vụ tranh chấp lãnh hải giữa Bangladesh và Myanmar (2012) hay Vụ Phân định biển giữa Somalia và Kenya (2021).
Việc Viện sử dụng phương pháp đường cách đều thông qua ba bước đảm bảo tính công bằng trong phân định biển. Bên cạnh đó, việc viện dẫn và công nhận “hiệu lực pháp lý” (legal effect) với Ý kiến tư vấn 2019 của ICJ cũng là điểm đáng lưu ý. Điều này sẽ củng cố chỗ đứng của các Ý kiến tư vấn ICJ khi tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia trong tương lai.
Viện thông qua ba bước sau đây để phân định vùng biển chồng lấn giữa hai quốc gia: (1) Vẽ đường cách đều tạm thời giữa bờ biển của Mauritius và Maldives; (2) Điều chỉnh đường cách đều trên sao cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý khách quan khu vực cần phân định, cụ thể là các yếu tố môi trường và địa lý của rạn san hô Blenheim (thuộc quần đảo Chagos); (3) Kiểm tra xem đường cách đều đã vẽ có tương xứng và công bằng chưa.
(1) Vẽ tạm thời đường cách đều giữa bờ biển của Mauritius và Maldives.
Đối với các bờ biển liên quan được xác định bởi Mauritius, Mauritius đệ trình rằng bờ biển liên quan của nước này kéo dài đến khoảng cách 46.8 km dọc theo bờ biển của Đảo san hô vòng Peros Banhos, Đảo san hô vòng quần đảo Salomon và rạn san hô Blenheim; và bờ biển liên quan của Maldives kéo dài tới 27.4 km dọc theo bờ biển phía nam của đảo san hô Addu. Phía Maldives đệ trình rằng chiều dài bờ biển liên quan của nước này là 39.2 km, không phải 27.4 km như Mauritius khẳng định, và chiều dài bờ biển liên quan của Mauritius là 39.9 km, không phải 46.8 km như tính toán của Mauritius.

Về phía Viện, Viện dựa trên phán quyết của ICJ đã tuyên bố trong Vụ Romania kiện Ukraine, cụ thể “danh nghĩa của một Quốc gia đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển thông qua hình chiếu của các bờ biển hoặc mặt tiền ven biển”. Do đó, trong vụ việc này, Viện cho rằng điều quan trọng là phải xác định các bờ biển của Mauritius và Maldives có các hình chiếu hướng ra biển trùng nhau.
Viện tiến hành các bước để vẽ đường trung tuyến tạm thời.
(i) Xác định các điểm cơ sở thích hợp trên các bờ biển liên quan của các bên.
Lựa chọn điểm cơ sở của các bên
Cả hai bên đưa ra điểm cơ sở khác nhau. Phía Mauritius cho rằng có 13 điểm cơ sở trên bờ biển của mình, bao gồm 09 điểm nằm trên Đảo san hô Peros Banhos và 04 điểm trên rạn san hô Blenheim. Mauritius đồng ý với tất cả 41 điểm cơ sở trên bờ biển của Maldives, nằm dọc theo bờ biển của Đảo san hô vòng Addu, như được xác định bởi Maldives. Còn về phía Maldives, Maldives cho rằng các Bên đã nhất trí về việc lựa chọn 41 điểm cơ sở trên bờ biển liên quan của mình. Tuy nhiên, Maldives lại không đồng ý với các điểm cơ sở do Mauritius lựa chọn đối với bờ biển liên quan của Mauritius và đưa ra phương án khác cho Mauritius là các điểm cơ sở của Mauritius nên được đặt trên Đảo san hô Peros Banhos và Đảo san hô Salomon. Theo đó, Maldives xác định 12 điểm cơ sở trên Đảo san hô Peros Banhos và 06 điểm cơ sở trên Đảo san hô Salomon. Viện căn cứ vào sự đồng thuận của hai bên về 09 điểm cơ sở nằm trên bờ biển của Mauritius trên Đảo san hô Peros Banhos và 41 điểm cơ sở nằm trên bờ biển Maldives trên Đảo san hô Addu.
Để kiểm tra tính chính xác của các điểm cơ sở, Viện lần lượt giải quyết ba câu hỏi có liên quan tới rạn san hô Blenheim.
Liệu rạn san hô Blenheim với tư cách là một bãi lúc nổi lúc chìm (hoặc nhiều bãi cạn lúc nổi lúc chìm) có thể là một địa điểm của các điểm cơ sở hay không?
Viện dựa trên quan điểm của hai bên về vấn đề này. Trong khi phía Mauritius cho rằng các điểm cơ sở có thể được đặt trên các bãi lúc nổi lúc chìm nhằm mục đích phân định, phía Maldives cho rằng rạn san hô Blenheim không tạo thành một phần bờ biển liên quan của Mauritius và không phù hợp để xác định vị trí của các điểm cơ sở nhằm mục đích phân định.Về phía Viện, Viện dựa vào tác động của rạn san hô Blenheim đối với đường cách đều tạm thời. Các bên đồng ý rằng các điểm cơ sở trên rạn san hô Blenheim sẽ kiểm soát gần một nửa đường cách đều tạm thời, dẫn đến việc trao cho Mauritius khoảng 4.690 km2, chiếm 4,9% diện tích các yêu sách chồng lấn đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở trường hợp hiện tại. Tuy nhiên, các bên có quan điểm khác nhau về đánh giá tác động đó: Mauritius cho rằng rạn san hô Blenheim là “cực kỳ khiêm tốn” trong khi Maldives cho rằng đó là “cực kỳ không cân xứng”. Viện cho rằng tác động tiềm ẩn của Rạn san hô Blenheim nằm ở giữa hai đánh giá nhưng chắc chắn không phải là không đáng kể. Vì vậy, Viện xác định rạn san hô Blenheim, với tư cách là một thực thể lúc nổi lúc chìm, không phải là địa điểm đặt các điểm cơ sở thích hợp để xây dựng đường cách đều tạm thời.
Liệu rạn san hô Blenheim với tư cách là một rạn san hô khô (hoặc các rạn san hô khô) có thể là một địa điểm của các điểm cơ sở hay không?
Viện nhận thấy rằng rạn san hô Blenheim là một rạn san hô khô cạn (“drying reef”) theo định nghĩa của Điều 47(1) UNCLOS 1982 và rạn san hô Blenheim ảnh hưởng tới việc phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các bên. Mauritius lập luận rằng “các điểm ngoặt quần đảo” (“archipelagic turning points”) xung quanh rạn san hô Blenheim cũng là các điểm cơ sở để xây dựng đường cách đều tạm thời và cần được phát huy tác dụng đầy đủ cho mục đích phân định căn cứ theo quy định của Điều 47, Điều 48 và Điều 49 UNCLOS 1982. Phía Maldives cho rằng rạn san hô Blenheim là một rạn san hô cạn không liên quan đến việc phân định trong trường hợp hiện tại. Đối với câu hỏi này, Viện cũng xét tới tác động của rạn san hô đối với việc phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Viện trước hết xem xét Điều 46 UNCLOS và nhận thấy Mauritius và Maldives là hai trong số 22 quốc gia đã tuyên bố mình là các quốc gia quần đảo, vì vậy, khi vẽ các đường cơ sở thẳng cho quần đảo, một quốc gia quần đảo phải đáp ứng một số tiêu chí quy định tại Điều 47 UNCLOS. Theo Điều 47, các điểm thích hợp cho đường cơ sở quần đảo có thể được đặt trên các đảo ngoài cùng và các bãi đá ngầm. Tuy nhiên, không có điều nào trong Điều 47 gợi ý rằng những điểm đó cũng nên là điểm cơ sở để xây dựng đường trung tuyến tạm thời hoặc nên có hiệu lực đầy đủ trong việc phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Điều khoản này cũng không ngụ ý rằng các rạn san hô khô cạn nên được đối xử như các đảo nhằm mục đích phân định. Ảnh hưởng của việc làm khô cạn các rạn san hô, hoặc các đảo đối với vấn đề đó, trong quá trình phân định phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng trường hợp. Viện nhận thấy rằng khi xét tới Điều 48 UNCLOS cũng không đề cập đến vấn đề phân định và cũng không thể có bất kỳ ngụ ý về tác động rằng các rạn san hô khô cạn phải là vị trí của các điểm cơ sở và có hiệu lực đầy đủ cho mục đích phân định. Với những lý do trên, Viện khẳng định dựa trên việc rạn san hô Blenheim là một rạn san hô khô cạn theo định nghĩa của Điều 47(1) của Công ước không thay đổi kết luận trước đó của Viện về việc không có điểm cơ sở nào có thể được đặt trên rạn san hô Blenheim để xây dựng đường cách đều tạm thời.
Liệu rạn san hô Blenheim là một bãi cạn lúc nổi lúc chìm đơn lẻ hay bao gồm nhiều bãi lúc nổi lúc chìm và liệu Điều 47(4) của Công ước có áp dụng cho rạn san hô Blenheim hay không?
Do ngay từ đầu, Viện khẳng định không đặt bất kỳ điểm cơ sở nào trên rạn san hô Blenheim nên vấn đề làm thế nào để vẽ đường cơ sở của Mauritius không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng đường cách đều tạm thời. Viện xem xét liệu rạn san hô Blenheim là một thực thể lúc nổi lúc chìm hay một thực thể bao gồm nhiều thực thể lúc nổi lúc chìm. Viện thừa nhận rằng các hải đồ dẫn đường do Mauritius trình bày mô tả rạn san hô Blenheim như một bãi cạn lúc nổi lúc chìm duy nhất lúc thủy triều xuống. Tuy nhiên, Viện không thể chấp nhận các hải đồ như bằng chứng thuyết phục cho thấy rạn san hô Blenheim là một bãi cạn duy nhất lúc thủy triều xuống, vì chúng được tạo ra không phải để chỉ ra kích thước chi tiết của rạn san hô Blenheim mà để đảm bảo an toàn hàng hải xung quanh khu vực đó. Ngoài ra, Viện cũng cho rằng cách tiếp cận của Hội đồng Trọng tài trong Vụ kiện Biển Đông đối với Đá Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây đã không làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong trường hợp hiện tại vì hội đồng trọng tài đã không cố gắng xác định kích thước và đặc điểm chính xác của các thực thể đó.
Viện khẳng định Điều 47(4) được áp dụng trong việc vẽ đường cơ sở quần đảo phù hợp với Điều 47(1) của Công ước. Theo đó, giới hạn 200 hải lý của Mauritius phải được đo từ những bãi cạn cạn lúc nổi lúc chìm nằm hoàn toàn hoặc một phần trong phạm vi 12 hải lý của Île Takamaka.
(ii) Xác định đường trung tuyến tạm thời
Dựa trên các điểm cơ sở mà Viện xác định, Viện vẽ đường trung tuyến tạm thời bắt đầu ở phía Tây giao điểm giữa các giới hạn 200 hải lý của Mauritius và Maldives. Đối với rạn san hô Blenheim, giới hạn 200 hải lý nên được đo từ giao điểm phía Bắc của mực nước thấp của rạn san hô Blenheim với giới hạn 12 hải lý được đo từ mực nước thấp của Île Takamaka. Đường trung tuyến tạm thời chạy theo hướng đông cho đến khi chạm tới giới hạn 200 hải lý của Maldives.

(2) Điều chỉnh đường cách đều trên phù hợp với hoàn cảnh địa lý khách quan khu vực cần phân định, cụ thể là các yếu tố môi trường và địa lý của rạn san hô Blenheim (thuộc quần đảo Chagos)
Sau khi vẽ đường trung tuyến tạm thời, Viện xem xét liệu có yếu tố nào buộc Viện phải điều chỉnh đường tạm thời này. Cả hai bên đều cho rằng không có hoàn cảnh hữu quan nào cần phải điều chỉnh đường cách đều tạm thời, tuy nhiên, hai bên đưa ra những quan điểm khác nhau về tác động của rạn san hô Blenheim đối với các đường cách đều tạm thời trong trường hợp được chấp nhận làm địa điểm xây dựng các điểm cơ sở. Về phía Viện, do giai đoạn đầu, Viện xác định không chọn bất kỳ điểm cơ sở nào trên rạn san hô Blenheim và Viện cho rằng ảnh hưởng của rạn san hô Blenheim đối với đường cách đều tạm thời nếu các điểm cơ sở được đặt trên đó sẽ không có nghĩa là không đáng kể. Tuy nhiên, Viện xem xét ở giai đoạn này rằng việc bỏ qua rạn san hô Blenheim hoàn toàn sẽ không dẫn đến một giải pháp công bằng trong trường hợp hiện tại, xét đến sự hiện diện của nhiều khu vực rạn san hô khô cạn như được thể hiện trong cuộc khảo sát trắc địa do Mauritius thực hiện. Viện cũng lưu ý rằng các rạn san hô khô cạn như vậy tương đương với “các đặc điểm tự nhiên khác” theo nghĩa của điều 46(b) của Công ước và, cùng với một nhóm đảo và các vùng nước liên hợp (“interconnecting waters”), tạo thành Quần đảo Chagos. Do đó, Viện nhận thấy rạn san hô Blenheim tạo thành một hoàn cảnh hữu trong trường hợp này, đòi hỏi phải điều chỉnh đường cách đều tạm thời được vẽ trong Đoạn 236 ở trên.

(3) Kiểm tra xem đường cách đều đã vẽ có tương xứng và công bằng
Dựa trên đường cách đều sau khi điều chỉnh, tổng diện tích phần biển thuộc chủ quyền của Mauritius là 45.331 km2, trong khi phần thuộc chủ quyền của Maldives là 47.232 km2. Tỷ lệ là 1:0.960 nghiêng về Maldives. Kết quả này không có sự chênh lệch đáng kể với tỷ lệ đường bờ biển của hai quốc gia là 1:1.03 nghiêng về Mauritius (đường bờ biển của Mauritius dài 40.3 km và của Maldives là 39km).[30]

Hình ảnh 5: Sơ đồ đường phân định biển trích từ Phán quyết ngày 28.4.2023.
2.3. Phân định thềm lục địa ngoài 200 hải lý
Viện trước tiên xem xét thẩm quyền trong việc phân định thềm lục địa của các bên ngoài 200 hải lý. Viện cho rằng mình có thẩm quyền phân định căn cứ vào phán quyết trước đó về vấn đề thẩm quyền, tuy nhiên, hai bên đưa ra quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong khi Mauritius cho rằng Viện có thẩm quyền tiến hành phân định, Maldives cho rằng thẩm quyền của Viện không mở rộng đến việc phân định thềm lục địa ngoài 200 hải lý. Viện dựa vào lập luận của hai bên đưa ra và cho rằng để trả lời cho câu hỏi liên quan đến thẩm quyền của Viện đối với phân định thềm lục địa 200 hải lý, cần thiết phải giải quyết ba câu hỏi (i) liệu yêu cầu của Mauritius về việc phân định thềm lục địa của các bên vượt quá 200 hải lý tạo ra một tranh chấp mới, theo lập luận của Maldives; (ii) liệu thẩm quyền của Viện, như được thiết lập trong Đoạn 354(6) của Phán quyết về Phản đối Sơ bộ, có bao gồm yêu cầu của Mauritius về phân định thềm lục địa của các bên vượt quá 200 hải lý ở “Khu vực Quần đảo Bắc Chagos hay không”. Viện giải quyết cùng một lúc hai câu hỏi vì phạm vi tranh chấp có liên quan tới phạm vi thẩm quyền. Viện căn cứ vào Thoả thuận đặc biệt ngày 24.09.2019, theo đó hai bên đã đồng ý “chuyển các thủ tục tố tụng trọng tài do Mauritius tiến hành trong vụ tranh chấp liên quan đến việc phân định ranh giới biển giữa họ ở Ấn Độ Dương tới Viện đặc biệt của Tòa”. Viện cũng nhận thấy rằng cả trong Thông báo của Mauritius và Thỏa thuận đặc biệt, nội dung tranh chấp được xác định một cách toàn diện là “tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới biển giữa hai quốc gia [các bên] ở Ấn Độ Dương ”. Theo quan điểm của Viện, không có điều gì trong các tài liệu này gợi ý một cách rõ ràng hay ngầm định rằng việc phân định ranh giới biển giữa các bên sẽ loại trừ thềm lục địa vượt quá 200 hải lý. Hơn nữa, Viện nhắc lại rằng trong Phán quyết về các phản đối sơ bộ, Viện đã giải quyết vấn đề về thẩm quyền của mình và nhận thấy rằng Viện “có thẩm quyền xét xử các tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới biển giữa các bên trong Ấn Độ Dương và tuyên bố của Mauritius về vấn đề này có thể được chấp nhận”. Viện xem xét kỹ Đoạn 354(6) trong Phán quyết về thẩm quyền và khẳng định mình có thẩm quyền trong việc phân định thềm lục địa 200 hải lý.
Sau đó, Viện xem xét tới việc phân định thềm lục địa 200 hải lý. Viện khẳng định các yêu sách về quyền đối với thềm lục địa vượt quá 200 hải lý phải phù hợp với Điều 76 UNCLOS 1982 và phải được Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) xem xét. Cả Maldives và Mauritius đều đã nộp đệ trình lên CLCS nhưng chưa nhận được khuyến nghị để có thể xác lập ranh giới ngoài của thềm lục địa mở rộng theo Điều 76(8).
Để phân định biển, trước tiên cần xác định liệu hai nước có thềm lục địa mở rộng hay không và liệu chúng có chồng lấn nhau. Trong đệ trình của mình lên CLCS, cả hai bên đều xác định mình có thềm lục địa mở rộng, chồng lấn nhau và đưa ra lập luận đối với yêu sách thềm lục địa ngoài 200 hải lý. Mauritius đã đưa ra ba tuyến đường khác nhau để kéo dài tự nhiên đến chân dốc, FOS-VIT31B, dựa trên đó mà quốc gia này đưa ra yêu sách thềm lục địa vượt quá 200 hải lý ở Quần đảo Chagos. Viện cho rằng tuyến đường thứ nhất mà Mauritius đưa ra là không được phép dựa trên cơ sở pháp lý Điều 76 UNCLOS, tuy nhiên, Viện không chắc chắn về việc liệu tuyến đường thứ hai và thứ ba có thể tạo thành cơ sở cho sự kéo dài tự nhiên của Mauritius đến chân dốc quan trọng hay không. Do đó, trong trường hợp này, Viện sẽ không tiến hành phân định thềm lục địa vượt quá 200 hải lý giữa Mauritius và Maldives, theo yêu cầu của Mauritius.
Nhận xét ngắn: Viện sử dụng phương pháp ba bước trong phân định biển, thay thế phương pháp hai bước trước đó nhằm đảm bảo “giải pháp công bằng” các bên trong tranh chấp. Viện cũng đã dựa vào những vụ việc trước đó để đưa ra một giải pháp phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong phạm vi 200 hải lý cho cả hai bên. Tuy nhiên, Viện vẫn chưa đưa ra phương pháp để phân định thềm lục địa ngoài 200 hải lý.
Dư Vũ Quỳnh Anh
——————————–
[1] Statute of the International Tribunal for the Law of the Sea (adopted on 28 October 1997, amended on 15 March and 2 September 200 and on 17 March 2009) ITLOS/8, art. 15(2).
[2] Trong vụ việc này, các thẩm phán bao gồm Jin-Hyun Paik (Chủ tịch), Jose Luis Jesus, Jean-Pieere Cot, Shunji Yanai, Boualem Bouguetaia, Tomas Heidar và Neeru Chadha. Thẩm phán ad hoc gồm GS. Bernard Oxman (người Mỹ) do Maldives chỉ định và Nicolaas Schrijver (người Hà Lan) do Mauritius chỉ định. <https://www.itlos.org/fileadmin/itlos/documents/cases/28/C28_Special_Agreement.pdf>
[3] Vụ phân định ranh giới biển giữa Mauritius và Maldives trên Ấn Độ Dương, 2021 Phán quyết của Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Đoạn. 79, xem thêm tại
<https://iuscogens-vie.org/2021/01/30/phan-quyet-ngay-28-01-2021-itlos-ve-tham-quyen-vu-phan-dinh-bien-mauritius-va-maldives/>
[4] ITLOS Press Release, ‘Special Chamber to deliver its judgment on preliminary objections’ (28 January 2001) ITLOS/Press 312
<https://www.itlos.org/fileadmin/itlos/documents/press_releases_english/PR_312_EN.pdf>.
[5] ITLOS Press Release, ‘Special Chamber to deliver its judgment on preliminary objections’ (28 January 2001) ITLOS/Press 334
<https://www.itlos.org/fileadmin/itlos/documents/press_releases_english/PR_334_EN.pdf>.
[6] Vụ phân định ranh giới biển giữa Mauritius và Maldives trên Ấn Độ Dương (Mauritius v. Maldives), 2023 Phán quyết của Tòa án Quốc tế về Luật Biển 2, Đoạn 91-94, xem thêm tại
<https://www.itlos.org/fileadmin/itlos/documents/cases/28/Merits_Judgment/C28_Judgment_28.04.2023_orig.pdf>.
[7] Vụ Phân định biển ở Biển Đen (Rumani v. Ukraine), Phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế năm 2009, Đoạn 115 – 122
[8] Nghiên cứu Biển Đông
<https://www.facebook.com/eastseastudies/posts/pfbid0vuL6xXp1Q3jafQpvATorxdWrrAkX5ss3xXaSRt9qtN7o6fd5d33V5sn4BupEeQqml>
[9] Mauritius v. Maldives, Đoạn 103.
[10] Mauritius v. Maldives, Đoạn 107.
[11] Maritime Delimitation in the Black Sea (Romania v. Ukraine), Judgment, I.C.J. Reports 2009, p. 61, para. 77.
[12] Mauritius v. Maldives, Đoạn 108.
[13] Mauritius v. Maldives, Đoạn 113.
[14] Mauritius v. Maldives, Đoạn 113.
[15] Mauritius v. Maldives, Đoạn 121-131.
[16] Mauritius v. Maldives, Đoạn 132-140.
[17] Mauritius v. Maldives, Đoạn 154.
[18] Mauritius v. Maldives, Đoạn 141-155.
[19] Mauritius v. Maldives, Đoạn 177.
[20] Mauritius v. Maldives, Đoạn 177.
[21] Mauritius v. Maldives, Đoạn 180.
[22] Mauritius v. Maldives, Đoạn 184.
[23] Mauritius v. Maldives, Đoạn 187.
[24] Mauritius v. Maldives, Đoạn 192.
[25] Mauritius v. Maldives, Đoạn 213.
[26] Mauritius v. Maldives, Đoạn 218.
[27] Mauritius v. Maldives, Đoạn 235.
[28] Mauritius v. Maldives, Đoạn 236.
[29] Mauritius v. Maldives, Đoạn 244.
[30] Mauritius v. Maldives, Đoạn 245.
[31] Mauritius v. Maldives, Đoạn 245.
[32] Mauritius v. Maldives, Đoạn 245.
[33] Mauritius v. Maldives, Đoạn 251-256 và Đoạn 248-250.
[34] Mauritius v. Maldives, Đoạn 283.
[35] Mauritius v. Maldives, Đoạn 330.
[36] Mauritius v. Maldives, Đoạn 331.
[37] Vụ phân định ranh giới biển giữa Mauritius và Maldives trên Ấn Độ Dương, 2021 Phán quyết của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (Phán quyết sơ bộ về thẩm quyền), Đoạn 354(6); Mauritius v. Maldives, Đoạn 333.
[38] Mauritius v. Maldives, Đoạn 455.
[39] Xem chi tiết yêu sách của Mauritius trong Mauritius v. Maldives, Đoạn 437 – 441.
[40] Mauritius v. Maldives, Đoạn 451.

Phương pháp nào tòa vẽ” điều chỉnh đường cách đều tạm thời được vẽ trong Đoạn 236 ” nhỉ? có phải nối giao của điểm 200hl về phía đông của qđ chargos khi bỏ qua Blenheim reef và 200 hl của maldive với “điểm X ” trong hình ảnh 5 có trong bài.