[241] Hợp tác bảo vệ môi trường biển trong pháp luật quốc tế

Ô nhiễm môi trường biển – Nghĩa vụ hợp tác bảo vệ môi trường biển

I. Ô nhiễm môi trường biển

Môi trường biển có thể hiểu là “môi trường ở các vùng biển và đại dương trên thế giới dưới mức thủy triều dâng cao trung bình”, bao gồm các thành tố chủ yếu là địa hình, môi trường sống và bãi cá[1]. Về mặt pháp lý, Quy định về tìm kiếm và thăm dò các nốt đa kim trong Vùng của Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển định nghĩa “môi trường biển” là tổng thể của:

các thành phần, điều kiện và yếu tố vật lý, hóa học, địa chất và sinh học tương tác và quyết định năng suất, trạng thái, điều kiện và chất lượng của hệ sinh thái biển, vùng nước của biển, đại dương và vùng trời phía trên các vùng nước đó, cũng như đáy biển, đáy đại dương và lòng đất dưới đó[2].

Trong khi đó, mặc dù là hiến pháp của đại dương, song Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) không đưa ra giải thích về thuật ngữ “môi trường biển”. Bằng cách áp dụng phương pháp giải thích theo nghĩa thông thường, Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) nhận định rằng, môi trường biển theo UNCLOS bao gồm thành tố không gian (không giới hạn ở vùng biển nhất định được thiết lập theo Công ước và bao gồm một số không gian nằm ngoài các vùng biển này như cửa sông[3], vùng duyên hải[4]) và thành tố vật chất (hệ sinh thái biển)[5].   

Khác với môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển được quy định tại Điều 1.1(4) UNCLOS là:

việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, đến hệ động vật và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển[6].

Với cách tiếp cận mở, định nghĩa này không cung cấp danh sách các nguồn gây ô nhiễm, mà thay vào đó đưa ra 03 tiêu chí để xác định điều gì cấu thành “ô nhiễm môi trường biển”, cụ thể là: (i) có chất liệu hoặc năng lượng; (ii) được con người đưa vào môi trường biển một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; và (iii) việc đưa vào đó phải dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tác động có hại[7]. Bên cạnh đó, việc ghi nhận nguồn lợi sinh vật, hệ động thực vật biển trong định nghĩa của Công ước đồng nghĩa rằng, bảo vệ môi trường biển bao gồm cả bảo vệ các loài sinh vật biển[8].

Cũng theo UNCLOS, 06 nguồn gây ô nhiễm được xác định là: (i) ô nhiễm bắt nguồn từ đất; (ii) ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra; (iii) ô nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra; (iv) ô nhiễm do sự nhận chìm; (v) ô nhiễm do tàu thuyền gây ra; và (vi) ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển[9]

II. Nghĩa vụ hợp tác bảo vệ môi trường biển

Một khuôn khổ pháp lý toàn diện về bảo vệ môi trường biển ở cấp độ đa phương được ghi nhận lần đầu tiên trong UNCLOS[10]. Theo đó, Điều 192 Công ước quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển”. Về mặt không gian, môi trường biển không giới hạn ở vùng biển nhất định, do đó nghĩa vụ này bao trùm toàn bộ biển và đại dương. Về mặt thời gian, nghĩa vụ theo Điều 192 bao gồm “bảo vệ” nhằm chống lại các tác động trong tương lai và “gìn giữ” nhằm duy trì, cải thiện điều kiện hiện tại (thậm chí khôi phục môi trường sống và hệ sinh thái biển[11]). Vì vậy, Điều 192 thể hiện đồng thời cả nghĩa vụ chủ động (thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ, gìn giữ môi trường biển) và nghĩa vụ thụ động (không làm suy thoái môi trường biển)[12]. Về mặt vật chất, Điều 192 không cụ thể hóa các tác động hay nguy cơ gây hại được điều chỉnh, nghĩa là nghĩa vụ này có thể phát sinh nhằm chống lại bất kỳ hình thức suy thoái nào đối với môi trường biển[13].

Như vậy, nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển tại Điều 192 UNCLOS được tiếp cận theo hướng mở nhằm bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng quốc tế một cách toàn diện. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng nghĩa vụ này là tập quán quốc tế và mang tính erga omnes[14], từ đó tạo cơ sở để giải quyết các vấn đề nảy sinh mới hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu với sự nóng lên của đại dương, mực nước biển dâng và axit hóa đại dương.

Tuy nhiên, do tính chất xuyên biên giới của ô nhiễm môi trường biển (từ sự chuyển động của các dòng hải lưu), việc bảo vệ, gìn giữ môi trường biển đòi hỏi sự hợp tác giữa các nước, đặc biệt là giữa các quốc gia ở ven bờ một biển nửa kín như Biển Đông[15]. Nghĩa vụ hợp tác trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển là một trong những nguyên tắc cơ bản của UNCLOS và luật pháp quốc tế chung[16]. Bên cạnh các biện pháp nhằm ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm được thực hiện riêng rẽ bởi từng quốc gia, UNCLOS khuyến khích:

Các quốc gia hợp tác trên phạm vi thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi khu vực, trực tiếp hay qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang tính chất quốc tế phù hợp với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, có tính đến các đặc điểm có tính chất khu vực[17].

Cụ thể, phạm vi hợp tác liên quan đến ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển bao gồm nghĩa vụ thông báo[18], nghiên cứu và trao đổi thông tin, dữ liệu[19]. Bên cạnh đó, các quốc gia cũng cần thực hiện đánh giá tác động tiềm tàng trước khi thực hiện các hoạt động thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình đối với môi trường biển và công bố kết quả này theo quy định tại Điều 205, 206 UNCLOS. Mặc dù đây là nghĩa vụ mang tính tập quán[20], nhưng vấn đề đánh giá tác động môi trường thường trở thành nội dung tranh chấp giữa các quốc gia[21], đòi hỏi sự thiện chí của quốc gia tiến hành hoạt động trong việc thực hiện nghĩa vụ theo Điều 206 của Công ước.

Trích bài viết “Ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường biển ở Biển Đông – Thực trạng và triển vọng hợp tác” (Vũ Quốc Tuấn, Bùi Minh Đức) tại Hội thảo “Hợp tác về an ninh hàng hải ở Biển Đông – Thực trạng và triển vọng” do Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức (16/10/2024)


[1] Brian R. Marker (2018), Marine Environments, https://link.springer.com/referenceworkentry/10.1007/978-3-319-73568-9_195.

[2] Điều 1.3(c) Quy định về tìm kiếm và thăm dò các nốt đa kim trong Vùng (Regulations on Prospecting and Exploration for Polymetallic Nodules in the Area) năm 2013, https://digitallibrary.un.org/record/766000?v=pdf.

[3] Điều 1.1(4) UNCLOS.

[4] Điều 145(a), 211.1 UNCLOS.

[5] ITLOS (2024), Đề nghị ý kiến tư vấn đệ trình bởi Ủy ban Quốc gia đảo nhỏ về Biến đổi khí hậu và Luật pháp quốc tế (Ý kiến tư vấn ngày 21/5/2024), đoạn 166-169, tr. 62-63.

[6] Lê Minh Nghĩa, Vũ Phi Hoàng, Viễn Đông, Trần Công Trục (dịch) (2014), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 23 [Nguyên văn là: “the introduction by man, directly or indirectly, of substances or energy into the marine environment, including estuaries, which results or is likely to result in such deleterious effects as harm to living resources and marine life, hazards to human health, hindrance to marine activities, including fishing and other legitimate uses of the sea, impairment of quality for use of sea water and reduction of amenities”].

[7] ITLOS (2024), Đề nghị ý kiến tư vấn đệ trình bởi Ủy ban Quốc gia đảo nhỏ về Biến đổi khí hậu và Luật pháp quốc tế (Ý kiến tư vấn ngày 21/5/2024), đoạn 161, tr. 60-61 [ITLOS xem xét sự phát thải khí nhà kính do con người tạo ra có thuộc định nghĩa “ô nhiễm môi trường biển” theo quy định của Công ước hay không].

[8] ITLOS (1999), Vụ Cá ngừ vây xanh phía Nam (New Zealand v. Nhật Bản; Úc v. Nhật Bản) (Biện pháp khẩn cấp tạm thời, Phán quyết ngày 27/8/1999), đoạn 70, tr. 295; Yoshifumi Tanaka (2023), The International Law of the Sea, Cambridge University Press, Vương quốc Anh, tr. 354.  

[9] Mục 5, Phần XII UNCLOS.

[10] Trước năm 1982 đã có một số điều ước quốc tế như Công ước về ngăn chặn ô nhiễm biển do nhận chìm chất thải và các chất khác (1972); Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (1973) và Nghị định thư của Công ước (1978)… Tuy nhiên, các điều ước này chỉ điều chỉnh một vấn đề cụ thể trong hoạt động bảo vệ môi trường biển.

[11] ITLOS (2024), Đề nghị ý kiến tư vấn đệ trình bởi Ủy ban Quốc gia đảo nhỏ về Biến đổi khí hậu và Luật pháp quốc tế (Ý kiến tư vấn ngày 21/5/2024), đoạn 386, tr. 129.

[12] PCA (2016), Phán quyết trọng tài về Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc (Phán quyết ngày 12/7/2016), đoạn 941, tr. 373-374.

[13] ITLOS (2024), Đề nghị ý kiến tư vấn đệ trình bởi Ủy ban Quốc gia đảo nhỏ về Biến đổi khí hậu và Luật pháp quốc tế (Ý kiến tư vấn ngày 21/5/2024), đoạn 388, tr. 129.

[14] Yoshifumi Tanaka (2023), The International Law of the Sea, Cambridge University Press, Vương quốc Anh, tr. 362-363.

[15] Điều 123(b) UNCLOS.

[16] ITLOS (2001), Vụ Nhà máy MOX (Ireland v. Vương quốc Anh) (Biện pháp khẩn cấp tạm thời, Phán quyết ngày 03/12/2001), đoạn 82, tr. 110.

[17] Lê Minh Nghĩa, Vũ Phi Hoàng, Viễn Đông, Trần Công Trục (dịch) (2014), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 167 [Nguyên văn là: “States shall cooperate on a global basis and, as appropriate, on a regional basis, directly or through competent international organizations, in formulating and elaborating international rules, standards and recommended practices and procedures consistent with this Convention, for the protection and preservation of the marine environment, taking into account characteristic regional features”].

[18] Điều 198 UNCLOS.

[19] Điều 200 UNCLOS.

[20] ITLOS (2011), Trách nhiệm và nghĩa vụ của quốc gia tài trợ cho các cá nhân và tổ chức liên quan đến các hoạt động tại Vùng (Đề nghị ý kiến tư vấn nộp đến Viện Giải quyết tranh chấp đáy biển) (Ý kiến tư vấn ngày 01/02/2011), đoạn 145, tr. 50.

[21] Xem thêm tại: ITLOS (2001), Vụ Nhà máy MOX (Ireland v. Vương quốc Anh) (Biện pháp khẩn cấp tạm thời, Phán quyết ngày 03/12/2001); ITLOS (2003), Vụ cải tạo đất của Singapore trong và xung quanh eo biển Johor (Malaysia v. Singapore) (Biện pháp khẩn cấp tạm thời, Phán quyết ngày 08/10/2003); PCA (2016), Phán quyết trọng tài về Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc (Phán quyết ngày 12/7/2016).

Bình luận về bài viết này

Tạo một blog trên WordPress.com

Lên ↑