Bối cảnh vụ việc – Thẩm quyền của Toà – Quan điểm các bên và quyết định của Toà – Yêu cầu phản tố của Bôlivia
I. Bối cảnh vụ việc
Năm 2016, Chilê khởi kiện Bôlivia ra Tòa ICJ, yêu cầu Tòa tuyên bố sông Silala là nguồn nước quốc tế được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế và đồng thời công nhận các quyền của nước này với tư cách là một quốc gia ven sông (“a riparian state”). Trong vụ việc này Chilê đệ trình năm yêu cầu trước Toà, tập trung vào vấn đề “bản chất” và “việc sử dụng” sông Silala cũng như các nghĩa vụ của Bôlivia đối với các hoạt động có thể có tác động lớn trên hệ thống sông Silala. Ngược lại, Bôlivia đưa ra ba yêu cầu phản tố với nội dung tập trung vào việc duy trì cơ sở hạ tầng và tăng cường dòng chảy cũng như chủ quyền của nước này đối một số công trình nhân tạo được xây dựng trên sông Silala. Ngày 01.12.2022, Tòa ICJ ra phán quyết cuối cùng và kết luận không đưa ra quyết định về ba yêu cầu đầu tiên của Chilê cũng như hai yêu cầu phản tố đầu tiên của Bôlivia với 15 phiếu thuận và 1 phiếu chống đến từ Thẩm phán Charlesworth. Toà cũng đồng thời không đưa ra quyết định về yêu cầu thứ tư của Chilê với 14 phiếu thuận và 2 phiếu chống đến từ Thẩm phán Charlesworth và Thẩm phán Robinson. Yêu cầu thứ năm của Chilê và yêu cầu phản tố thứ ba của Bôlivia bị bác bỏ với sự đồng thuận với tất cả Thẩm phán.
Sông Silala bắt nguồn các mạch nước ngầm ở Vùng Potosí của Bôlivia, cách biên giới chung với Chilê khoảng 0,5 đến 3 km về phía đông bắc ở độ cao khoảng 4.300 mét. Việc sử dụng nguồn nước từ sông Silala bắt đầu từ năm 1906 khi Công ty TNHH Đường sắt Antofagasta (Chilê) và Bôlivia (FCAB) được Chính phủ Chilê và Bôlivia nhượng quyền cung cấp nước cho thành phố cảng Antofagasta và tuyến đường sắt Antofagasta-La Paz. Năm 1997, chính quyền Bôlivia đã thu hồi quyền sử dụng nước từ sông Silala đã cấp cho FCAB. Cùng năm này, Hạ viện Bôlivian đã loại bỏ thuật ngữ “sông” đối với sông Silala, tuyên bố Silala là một con suối thuộc chủ quyền riêng của mình và tính phí sử dụng đối với Chilê. Đến năm 2009 trong khuôn khổ chương trình nối lại quan hệ ngoại giao, tổng thống của Bôlivia và Chilê đã đạt được thỏa thuận sơ bộ về vấn đề sử dụng sông Silala. Theo đó, thỏa thuận sơ bộ này xác định Chilê phải trả 50% lượng nước của sông Silala trong thời gian nước này thực thi các hoạt động nghiên cứu và khai thác sông. Tuy nhiên, sau hai năm, Bôlivia đã đề xuất khoản thanh toán phải có hiệu lực hồi tố đối với việc nối vùng biển với Chilê vào đầu thế kỷ 20. Chilê đã từ chối thoả thuận sơ bộ này. Cuối cùng, Bôlivia đã mở một trại sản xuất giống cá hồi được cung cấp từ sông Silala khiến Chilê phản ứng bằng việc tuyên bố sông Silala này là một nguồn nước quốc tế. Để xem chi tiết phán quyết: toàn văn bằng tiếng Anh, và bản tóm tắt phán quyết của Ban thư ký Tòa.

Lược đồ sông Silala trong Phán quyết ngày 01.12.2022 của ICJ
II. Thẩm quyền của Toà
Thẩm quyền của Toà ICJ trong vụ Chilê v. Bôlivia dựa trên Hiệp ước Châu Mỹ về Giải quyết tranh chấp tại Thái Bình Dương (“Hiệp ước Bogotá”). Theo đó, Điều XXXI Hiệp ước này quy định các quốc gia thành viên đồng ý đệ trình lên Tòa bất kỳ tranh chấp nào có thể phát sinh liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng các điều ước hoặc thỏa thuận quốc tế có hiệu lực giữa họ. Trong vụ việc này, cả Chilê và Bôlivia đều không phản đối Điều XXXI của Hiệp ước Bogotá trao cho ICJ thẩm quyền xét xử tranh chấp giữa các Bên. Ngoại lệ duy nhất là việc Chilê khẳng định Tòa ICJ không có thẩm quyền đối với yêu cầu phản tố đầu tiên của Bôlivia trong biên bản tranh tụng. Tuy nhiên, trong một cuộc họp giữa đại diện của Chilê, Chủ tịch Toà ICJ và đại diện các bên liên quan, nước này đã đưa ra một tuyên bố khẳng định không còn phản đối thẩm quyền của Toà trong việc giải quyết yêu cầu phản tố đầu tiên của Bôlivia ([133]). Tòa nhận định yêu cầu phản tố đầu tiên của Bôlivia có liên quan trực tiếp đến các yêu cầu của Chile đối với các nghĩa vụ của Bôlivia và nằm trong phạm vi của Điều XXXI Hiệp ước Bogotá. Do đó, Tòa tuyên bố có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phản tố đầu tiên của Bolivia và tiến hành xem xét nội dung của yêu cầu phản tố này.
III. Quyết định của Toà
1. Tình trạng của sông Silala với tư cách là một nguồn nước quốc tế được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế
Trọng tâm của tranh chấp là vấn đề “bản chất” và “việc sử dụng” của sông Silala. Chilê đề nghị Tòa tuyên bố “hệ thống sông Silala, cùng với các mạch ngầm trong hệ thống của sông này, là một nguồn nước quốc tế và việc sử dụng hệ thống sông này được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế” ([50]). Chilê cho rằng định nghĩa về “nguồn nước quốc tế” trong Điều 2(a) và (b) của Công ước năm 1997 về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế vào mục đích phi giao thông thuỷ (“Công ước 1997”) là tập quán quốc tế và rằng sông Silala, bất kể đặc tính “tự nhiên” hay “nhân tạo”, đủ điều kiện là một nguồn nước quốc tế. Mặc dù Bôlivia công nhận sông Silala đủ điều kiện là nguồn nước quốc tế song nước này phản bác rằng Điều 2 của Công ước (bao gồm định nghĩa về thuật ngữ như “nguồn nước quốc tế”) không phải là một phần của tập quán quốc tế. Nước này cũng lập luận rằng “các đặc điểm độc đáo” của dòng sông phải được tính đến khi áp dụng các quy tắc thông thường về các dòng nước quốc tế.
Tòa thừa nhận rằng các bên đã đạt được thỏa thuận về bản chất của Silala như một nguồn nước quốc tế và cả hai đều đồng ý rằng sông này được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế.
Trong quá trình đưa ra quyết định đối yêu cầu này của Chilê, Toà không đưa ra bất cứ quyết định nào liên quan đến việc công nhận giá trị tập quán của Điều 2(a) và (b) của Công ước 1997 mà chỉ nhận định các bên đã đạt được thỏa thuận công nhận bản chất của Silala như một nguồn nước quốc tế được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế và Bôlivia đồng ý với nội dung của yêu cầu đầu tiên của Chilê. Do đó, Tòa không đưa ra quyết định đối với yêu cầu này của Chilê ([159]). Một điểm đáng lưu ý là Tòa đã đưa ra kết luận tương tự đối với các yêu cầu thứ hai, thứ ba và thứ tư của Chilê.
2. Quyền của Chilê đối với việc sử dụng công bằng và hợp lý sông Silala
Đối với yêu cầu thứ hai và thứ ba, Chilê đề nghị Tòa tuyên bố “Chilê có quyền sử dụng hợp lý và công bằng các vùng nước của hệ thống sông Silala theo tập quán quốc tế” ([66]). Chilê khẳng định quyền lợi của nước này đối với sông Silala được đảm bảo trên cơ sở nguyên tắc sử dụng công bằng và hợp lý và không bị ảnh hưởng bởi thực tế dòng chảy sông Silala được “tăng cường một cách nhân tạo”. Một điểm đáng lưu ý ở yêu cầu này là việc quan điểm của Chilê nhất quán trong suốt quá trình tố tụng còn Bôlivia thì ngược lại. Trong Biên bản tranh tụng, Bôlivia tuyên bố nguyên tắc sử dụng công bằng và hợp lý chỉ áp dụng cho các “dòng chảy tự nhiên” của sông Silala và khẳng định rằng việc Chilê sử dụng “dòng chảy nhân tạo” của con sông này cần phải có sự đồng ý của Bôlivia. Hơn nữa nước này tiếp tục nhấn mạnh rằng, đối với các phần “dòng chảy tự nhiên” của sông Silala, cả hai quốc gia đều có quyền sử dụng sông Silala một cách công bằng và hợp lý theo tập quán quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình tranh tụng tại Toà, Bôlivia thừa nhận quyền sử dụng hợp lý và công bằng sông Silala bao trùm toàn bộ vùng nước sông Silala, bất kể là “dòng chảy tự nhiên” và dòng chảy được “tăng cường một cách nhân tạo”. Trong quá trình đưa ra quyết định đối yêu cầu này của Chilê, Tòa nhận định rằng các bên đã đạt được đồng thuận về quyền sử dụng sông Silala một cách công bằng và hợp lý theo tập quán quốc tế. Do đó, Tòa không đưa ra quyết định đối với yêu cầu này của Chilê.
3. Nghĩa vụ của Bôlivia trong việc ngăn ngừa và kiểm soát hậu quả đối với các hoạt động của quốc gia này tại các vùng lân cận sông Silala
Đối với yêu cầu thứ tư, Chilê đề nghị Tòa tuyên bố Bôlivia có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp thích hợp để ngăn chặn ô nhiễm và thiệt hại do hoạt động của họ ở vùng lân cận sông Silala ([77]). Chilê lập luận rằng Bôlivia cũng có nghĩa vụ hợp tác để ngăn chặn tác hại xuyên biên giới đối với việc sử dụng nước của hệ thống sông Silala ở Chilê, và các quốc gia chia sẻ nguồn nước quốc tế cũng có nghĩa vụ ngăn chặn tác hại đối với nhau. Trong quá trình tố tụng, Chilê đã khẳng định rằng cả hai bên đều phải ràng buộc nghĩa vụ ngăn chặn tác hại xuyên biên giới đáng kể, bao gồm thông báo và trao đổi thông tin, và đánh giá tác động môi trường trên cơ sở Điều 7 Công ước 1997. Trong khi đó, Bôlivia đã duy trì quan điểm rằng nguyên tắc “không gây hại đáng kể” chỉ áp dụng cho các hoạt động gây ra tác động đáng kể đối với môi trường và không bao gồm việc ngăn chặn ô nhiễm và các hình thức gây hại khác mà không có điều kiện ([79-81]). Bôlivia cũng nhấn mạnh rằng cả hai bên đều có nghĩa vụ không gây tổn hại đáng kể cho quốc gia ven sông khác và đề xuất tiến hành đánh giá tác động môi trường nếu có nguy cơ gây hại đáng kể. Cuối cùng, Bôlivia yêu cầu Tòa án xem xét việc vẫn còn tranh chấp giữa hai bên và quyết định cả hai bên đều có nghĩa vụ thực hiện biện pháp thích hợp để ngăn chặn tác hại xuyên biên giới đáng kể tại sông Silala. Trong quá trình tranh tụng, Chilê và Bolivi đều đồng ý chịu ràng buộc bởi nghĩa vụ ngăn ngừa và kiểm soát hậu quả đối với các hoạt động của hai quốc gia này tại các vùng lân cận sông Silala. Vì các lý do này, Tòa kết luận cả hai bên đã đạt đồng thuận về nội dung của yêu cầu này của Chilê và do đó, Tòa không đưa ra quyết định đối với yêu cầu này của Chilê ([85-86]).
4. Nghĩa vụ thông báo và tham vấn của Bôlivia đối với các hoạt động có thể có tác động lớn trên hệ thống sông Silala
Trong yêu cầu cuối cùng, Chilê yêu cầu Tòa tuyên bố Bôlivia đã vi phạm nghĩa vụ thông báo và tham khảo ý kiến của Chilê về các hoạt động có thể ảnh hưởng đến sông Silala. Nước này đồng thời khẳng định Boiliva có nghĩa vụ hợp tác và cung cấp cho Chilê thông báo kịp thời về các biện pháp có thể gây ảnh hưởng xấu đến nguồn nước chung. Về phần mình, Bôlivia khẳng định rằng họ không vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào đối với Chilê đối với vùng biển Silala vì theo tập quán quốc tế nghĩa vụ thông báo và tham vấn chỉ phát sinh trong trường hợp các hoạt động “có thể có nguy cơ gây tổn hại xuyên biên giới đáng kể khi được xác nhận bởi đánh giá tác động môi trường” ([88]). Vì cả hai quốc gia đều không phải là thành viên của Công ước 1997, nên quyết định của Toà trong vụ việc này dựa trên trên cơ sở tập quán quốc tế. Chilê trong yêu cầu cuối cùng này, lập luận rằng Điều 11 và 12 của Công ước 1997 phản ánh tập quán quốc tế liên quan đến nghĩa vụ thông báo và tham vấn. Toà công nhận Điều 12 của Công ước này phản ánh tập quán quốc tế về nghĩa vụ tham vấn, thông báo chung và bác bỏ lập luận Chilê liên quan đến Điều 11 ([117]). Ngoài ra, Chilê và Bôlivia cũng đồng thời có quan điểm khác nhau về ngưỡng gây ra vi phạm nghĩa vụ thông báo và tham vấn. Trên cơ sở nội dung của Điều 12 Công ước 1997 Chilê khẳng định “tác động bất lợi đáng kể” là ngưỡng thích hợp khi xem xét việc áp dụng nghĩa vụ thông báo, tham vấn ([103-105]). Ngược lại, Bôlivia lập luận rằng các nghĩa vụ chỉ phát sinh khi có nguy cơ gây tổn hại xuyên biên giới một cách đáng kể đáng kể. Hơn nữa, nước này đã viện dẫn kết luận về Điều 12 của ILC trong Dự thảo Công ước 1997 rằng “ngoại trừ nghĩa vụ thông báo và tham vấn chung, điều khoản này không phản ánh tập quán luật quốc tế liên quan đến các nguồn nước quốc tế”([117]). Toà đồng ý với lập luận của Bôlivia về ngưỡng gây ra vi phạm nghĩa vụ thông báo và tham vấn và lập luận thêm rằng trong xuyên suốt quá trình tố tụng Chile đã thất bại trong việc đưa ra đủ bằng chứng chứng minh các hoạt động của Bolivia gây phương hại đến sông Silala. Cuối cùng, ICJ kết luận bác bỏ yêu cầu cuối của Chilê ([136]).
5. Yêu cầu phản tố của Bôlivia
Yêu cầu phản tố thứ nhất
Trong yêu cầu phản tố đầu tiên của Bôlivia đề nghị Toà tuyên bố nước này có chủ quyền đối với các kênh nhân tạo và cơ chế thoát nước ở sông Silala nằm trên lãnh thổ của nước này. Trong quá trình tranh tụng, cả Bôlivia và Chilê đều đồng ý rằng các kênh này nằm trong lãnh thổ của Bôlivia và công nhận quyền của nước này trong việc duy trì hoặc tháo dỡ chúng. Do đó, Tòa kết luận rằng không còn bất đồng giữa hai bên về quyền của Bôlivia đối với cơ sở hạ tầng này và không đưa ra quyết định đối với yêu cầu phản tố đầu tiên của Bôlivia.
Yêu cầu phản tố thứ hai
Trong yêu cầu phản tố thứ hai, Bôlivia đề nghị Toà tuyên bố nước này có chủ quyền đối với dòng chảy nhân tạo của sông Silala được thiết kế, tăng cường hoặc sản xuất trên lãnh thổ của nước này và Chilê không có quyền đối với dòng chảy nhân tạo đó. Tuy nhiên, quan điểm của Bôlivia đã thay đổi đáng kể trong quá trình tố tụng, công nhận sông Silala là một nguồn nước quốc tế được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế. Bôlivia cho rằng Chilê vẫn có thể được hưởng lợi công bằng và hợp lý từ dòng chảy nhân tạo, miễn là dòng chảy vẫn duy trì và tồn tại. Tuy nhiên, Bôlivia muốn Tòa tuyên bố rằng Chilê không có quyền đối với việc duy trì việc kiểm soát nguồn nước sông Silala và quyền của Chilê đối với việc sử dụng hợp lý và công bằng dòng chảy không phải là “quyền cho tương lai”. Toà nhận định rằng trong quá trình tranh tụng tại Toà, Chile đã đưa ra tuyên bố công nhận Bolivia có quyền chủ quyền đối với dòng chảy nhân tạo của sông Silala được thiết kế, tăng cường hoặc sản xuất trên lãnh thổ của nước này, cũng như đồng ý với nội dung của yêu cầu phản tố này của Bôlivia. Chính vì vậy, Tòa kết luận không tồn tại bất đồng giữa các bên về yêu cầu phản tố thứ hai vì quan điểm giữa hai bên đã đồng nhất. Do đó, ICJ không đưa ra quyết định đối với yêu cầu phản tố thứ hai của Bôlivia.
Yêu cầu phản tố thứ ba
Trong yêu cầu phản tố thứ ba, Bôlivia yêu cầu Tòa tuyên bố bất kỳ nhu cầu nào của Chilê trong việc yêu cầu Bôlivia duy trì cơ sở hạ tầng và tăng cường dòng chảy cần phải tuân theo một thỏa thuận giữ hai nước này. Ngược lại, Chilê cho rằng yêu cầu phản tố này dựa trên một tình huống mang tính chất giả định mà không có cơ sở trên thực tế. Toà nhấn mạnh chỉ có thể ra phán quyết đối với các vấn đề cụ thể và tồn tranh chấp thực tế giữa các bên tại thời điểm xét xử. Vì yêu cầu phản tố này không liên quan đến một tranh chấp thực tế hiện tại giữa hai bên, mà là một tình huống giả định trong tương lai, nên Tòa bác bỏ yêu cầu phản tố thứ ba của Bôlivia.
Phạm Quốc Hào

Bình luận về bài viết này